Thuyết luân hồi (re-incarnation) là một trong những thuyết căn bản của hai tôn giáo lớn trên thế giớI là Ấn giáo(Hinduism) và Phật giáo .
Theo thuyết luân hồi thì kiếp sống hiện tại không phải là kiếp sống duy nhất. Trước khi sinh vào kiếp này, con ngườI đã trải qua nhiều kiếp trước. Và khi chết đi, con ngườI sẽ tiếp tục tái sinh vào những kiếp sau .
Các tôn giáo lớn xuất phát từ phương Tây thường không tin vào thuyết luân hồị Chẳng hạn như:
Do-Thái giáo (Judaism) cho rằng kiếp sống này là kiếp duy nhất. Sau khi chết con ngườI sẽ đi vào một giấc ngũ dài, thật dài, mãi cho đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng mới thức dậy để chịu sự phán xét của Thiên Chúa về những việc mình đã làm. Kẻ biết vâng lời Thiên Chúa thì được lên Thiên Đàng, ngược lại thì sẽ xuống hỏa ngục .
Ki-Tô giáo, bao gồm Công giáo, Chính-Thống giáo, và nhiều giáo hộI Tin-Lành khác nhau, cũng tin rằng kiếp sống này là kiếp duy nhất. Sau khi chết, nếu ta tin vào sự cứu chuộc của Chúa Jesus thì sẽ được lên Thiên Đàng, không tin thì sẽ xuống hỏa ngục .
Hồi giáo, bao gồm các phái Sunni, Shìite, và Sufi, cũng tin rằng kiếp sống này là kiếp duy nhất. Trong kiếp sống, nếu con ngườI làm đúng theo lờI dạy của Thiên Chúa trong Thánh Kinh Quoran thì sau khi chết sẽ được lên Thiên Đàng. Không làm theo thì bị xuống hỏa ngục.
Thuyết luân hồi còn quan niệm rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống hiện tại cũng không phải là vũ trụ duy nhất.
Cao hơn cõi mà chúng ta đang sống, có những cõi mà chúng sinh nơi đó thông minh sáng suốt hơn loài người rất nhiều . Họ có nhiều phương tiện, khả năng hơn hẳn loài ngườI gấp bội mà ta thường gọi là phép mầụ Tuy nhiên, họ vẫn bị chi phối bởi những sự vui buồn, thương ghét, giận sợ, muốn. Đó là cõi cũa những chúng sinh mà ta thường gọi là các bậc thiên thần, thần, tiên, thánh, v.v...
Cao hơn nữa là các cõi mà chúng sinh nơi đó không còn bị lung lạc bỡI những sự vui buồn, thương ghét, giận sợ, muốn.
Và còn các cõi cao hơn thế nữạ.. ngoài sự tưởng tượng của con ngườI bình thường.
Thấp hơn cõi mà chúng ta đang sống, có những cõi mà chúng sinh nơi đó tuy không khác chúng ta bao nhiêu, nhưng lúc nào cũng bị khổ não vì sự ham muốn vô tận mà không đạt được: ham ăn, ham vật chất, ham sắc dục, luyến tiếc cuộc sống đã mất. Quan hệ giữa họ vớI nhau thì đầy những giận ghét, sợ sệt, tức giận, nghi ngờ. Đó là cõi mà dân gian hay gọI nôm na là cõi âm.
Thấp hơn nữa, có những cõi mà chúng sinh nơi đó chỉ sống theo bản năng như con thú, không có ý thức, không có tình cảm.
Thấp nhất là các cõi mà ta hay gọi là địa ngục. Đó là nơi mà những gì xấu xa, tệ hại nhất đều dồn vàọ Chúng sinh ở đó chỉ lấy tàn bạo đối đãi nhau . Trong thâm tâm mỗI chúng sinh nơi đó đều bừng bừng ngọn lửa tàn bạo không bao giờ tắt . Vì vậy ngườI đời mớI còn gọi là hỏa ngục .
Theo thuyết luân hồi, các kiếp trước và các kiếp sau của một ngườI không nhất thiết là chỉ quanh quẩn trong cõi người . Chúng ta có thể đến từ các cõi khác, và có thể đi về các cõi khác sau khi chết .
Thế thì ai sẽ quyết định cho chúng ta sẽ đi về cõi nào sau khi chết? Nghiệp (karma) của chúng ta sẽ quyết định điều đó. Nghiệp là hành trang duy nhất mà mỗI ngườI có thể tích lũy và mang theo sau khi chết. Nếu như Nghiệp của ta đầy những dục vọng, thù ghét, dốt nát thì nó sẽ kéo ta đến một cõi xứng đáng cho ta như vậy . Nếu như Nghiệp của ta có nhiều sáng suốt, từ bi, thanh thản thì nó sẽ đưa ta đến một cõi thích hợp cho ta .
Theo Ấn giáo, mục đích của con ngườI là phấn đãu để được sinh vào các cõi tốt đẹp hơn, nếu như có sinh vào lại cõi ngườI thì cũng được làm ngườI có trí tuệ, có đạo đức, có đời sống hạnh phúc. Phấn đãu như thế nào thì Ấn-giáo có nhiều trường phái khác nhaụ Có những vị tu theo các phép khổ hạnh. Có vị tập thiền để kiểm soát những nghiệp xấu không cho phát triển. Có vị tập các phép thần thông để vượt lên các cõi trên. NgườI bình thường thì cố sống đạo đức, năng bố thí, tránh sát sinh .
Tuy nhiên, Ấn giáo cũng có những điểm tiêu cực, điển hình là chế độ kỳ thị đẳng cấp. Chế độ đẳng cấp xuất hiện dựa trên quan niệm cho rằng những giai cấp cùng khổ phải chịu như vậy vì kết quả của những nghiệp xấu của họ từ tiền kiếp. Các giai cấp giàu sang, quí tộc, các bậc tu sĩ thì xứng đáng được kính nể vì đó là do nghiệp tốt của họ mang lạị Quan niệm này là một quan niệm hết sức nông cạn và sai lầm về thuyết luân hồị Bởi vì một ngườI nghèo chưa chắc là nghèo hoài và người giàu chưa hẳn là giàu mãi mãị Bên cạnh đó, nghèo chưa chắc là đau khổ và giàu chưa phải là hạnh phúc. Vả lại, không thiếu gì những chúng sinh tràn đầy nghiệp tốt nhưng tâm nguyện tái sinh vào chỗ cùng khổ để thực hiện những ý nguyện cao cả. Thế nhưng quan niệm đẳng cấp đã bị các tầng lớp thống trị ở Ấn Độ lợi dụng để duy trì địa vị của họ. Qua nhiều thế kỷ, nếp suy nghĩ ăn sâu vào quần chúng, phải mất nhiều thờI gian mớI xóa bỏ được .
Theo Phật giáo, mục đích cuối cùng không chỉ dừng lại ở chổ được tái sinh vào chỗ tốt, mà là hoàn toàn thoát ra khỏi vòng luân hồi, không còn sinh và tái sinh vào các cõi nữạ Đạo Phật cho rằng ai ai cũng có khả năng thăng tiến để cuối cùng thoát khỏi luân hồị Ngay cả những chúng sinh nơi địa ngục, nếu giác ngộ và lo giải trừ nghiệp ác thì cũng có lúc lên được các cõi trên. Còn chúng sinh các cõI trên, nếu để cho nghiệp xấu phát triển, thì cũng có thể bị sa vào các cõi thấp hơn .
Tuy nhiên, việc này không phải dễ làm và cũng không phải dễ làm được trong một kiếp. Vì vậy, Phật giáo mớI có nhiều tông phái khác nhau, dùng những phương pháp khác nhau đễ giúp quần chúng thăng tiến tùy theo căn cơ và khả năng của tông người .
Tịnh-Độ tông dùng đức tin đễ giúp quần chúng. Người theo Tịnh-Độ tin rằng chư Phật và chư Bồ-Tát luôn có mặt để dìu dắt giúp đỡ chúng sinh đi dến chỗ giác ngộ. Với đức tin, chúng sinh sẽ phát tâm từ bi, sống đờI đạo hạnh. Khi chết đi, chúng sinh sẽ vững tin rằng chư Phật và chư Bồ-Tát sẽ dìu dắt mình về cõi Tịnh Độ. Nơi đó chúng sinh sẽ có điều kiện tốt đẹp hơn để tiếp tục tu tập hầu thăng tiến hơn nữa đến chỗ hoàn toàn giải thoát.
Thiền tông dùng sự sáng suốt để giúp quần chúng. NgườI theo Thiền tông luyện tập để tỉnh táo theo dõi cái Nghiệp của mình, hầu biết cách chận đứng và tiêu trừ các nghiệp xấu .
Mật tông dùng những kỹ thuật tu tập đặc biệt vớI sự trợ giúp của các bậc đại sư và của chư Bồ-Tát để giúp quần chúng kiểm soát và tiêu trừ nghiệp xấu .
Liên tông dùng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa để tóm gọn nội dung căn bản của đạo Phật hầu giúp quần chúng dễ dàng lĩnh hội .
Nam tông dùng các phép tu cổ điển để giúp chúng sinh diệt tham, sân, si, tìm được trạng thái thân tâm an lạc trong đời sống hàng ngày .
Phật giáo Hòa Hảo kết hợp đạo Phật vớI đạo đức truyền thống dân tộc, truyền bá giáo lý một cách đơn giản, dễ hiểu để giúp cho quần chúng bình dân dễ dàng hành đạo .
Bí ẩn trí nhớ về kiếp trước
Một cô bé người Anh đã làm mọi người kinh ngạc vì bắt đầu nói bằng thứ ngôn ngữ khác lạ vào một buổi sáng sau khi thức giấc. Cô không còn hiểu được tiếng Anh, không nhận ra cha mẹ và luôn tỏ ra sợ sệt...
Các chuyên gia vào cuộc và xác định, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh và thứ ngôn ngữ lạ mà cô sử dụng chính là tiếng Tây Ban Nha chuẩn. Bằng thứ tiếng này, cô cũng khẳng định mình là người Tây Ban Nha, rằng tại thành phố Toledo, trong một ngôi nhà trên đường phố, người hàng xóm vì ghen tị đã dùng dao đâm cô.
Cảnh sát Tây Ban Nha đã kiểm tra lại câu chuyện này; tất cả đều trùng hợp. Đúng là có một cô gái 22 tuổi từng sống ở Toledo , chính trong ngôi nhà và đường phố mà cô bé ở Anh đã nói đến. Một hôm, người ta tìm thấy cô bị giết chết. Cha mẹ cô đã già và tới nay vẫn còn than khóc vì thương nhớ con. Khi hỏi đến người hàng xóm nay cũng đã già, người này thú nhận tội ác của mình.
Báo chí thế giới đăng tải câu chuyện trên khiến nhiều người kinh ngạc. Nhưng các nhà khoa học thì không ngạc nhiên vì đối với họ, hiện tượng đó không phải là mới.
Vào những năm 1970, Elena Markard - cô gái Đức 20 tuổi ở Tây Berlin - bị thương nặng. Khi tỉnh lại, cô bắt đầu nói tiếng Italy rất chuẩn - thứ tiếng mà trước đó một chữ cắn đôi cô cũng không hề biết. Cô khẳng định tên mình là Rozetta Liani, sinh ở Italy năm 1887 và đã... chết ở đó năm 1917. Khi được đưa tới địa chỉ "quê cũ" tại Italy , Elena gặp một bà già, vốn là con gái của người phụ nữ có tên Rozetta đã quá cố. Không do dự, cô gái 20 tuổi Elena chỉ vào bà già và nói: “Đây là con gái tôi - Fransa”.
Tạp chí Tiếng vọng hành tinh của Nga cũng đã có lần kể về cậu bé Titu người Ấn Độ: Cậu bỗng nhiên nói rằng tên mình là Sures Varma, chủ một cửa hiệu ở Agra , có vợ là Uma và hai đứa con. Cha mẹ cậu hoảng sợ liền đi Agra tìm hiểu và được biết: Đúng là có một thương gia tên Varma từng sống ở đó và đã chết vì bị bắn vào đầu. Khi gặp góa phụ và hai đứa con, Titu nhận ra cả ba người. Một điều thú vị là trên đầu Titu có dấu vết bẩm sinh đúng vào chỗ vết thương của ông Varma trước đây.
Trong lịch sử từng có hàng nghìn trường hợp quay trở về cuộc sống dĩ vãng. Một lý thuyết được gọi là “trí nhớ gene” đã được đề xướng để giải thích các hiện tượng này. Theo nhà nghiên cứu Hidtoring Tan, trí nhớ gene là trí nhớ đã được di truyền từ các thế hệ trước. Ngay từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của mọi việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... Trí nhớ gene được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình.
Các nhà nghiên cứu sinh linh lại cho rằng hiện tượng này là do “phách” của một người đã chết nào đó nhập vào một người sống. Phách là cái nằm bên trong thể xác, thể xác có thể chết đi nhưng phách thì không bao giờ bị tiêu tan, nó tồn tại mãi từ kiếp này sang kiếp khác theo vòng luân hồi. Nếu người đang sống mà yếu về năng lực tinh thần và thể xác thì sẽ bị phách mới nhập khống chế, điều trước tiên là kích động việc nhớ lại cuộc đời của người đã chết. Lý thuyết này được khá nhiều người ủng hộ vì trong một số trường hợp, người quay trở về kiếp trước được xác định là hoàn toàn không có quan hệ họ hàng gì với người mà họ đã hóa thân.
Ai là người sở hữu trí nhớ gene?
Liệu có phải ngay từ khi sinh ra, mỗi người đều tích trữ trong bộ não mình dữ liệu về những đời trước? Các nhà khoa học nhận thấy rằng cả cuộc đời một con người, dù có sống đến 100 tuổi thì cũng mới chỉ tiêu thụ có 1/10 năng lực của bộ não. Có thể 9 phần còn lại đã tích chứa những ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa mà trí nhớ gene là cái khóa cần được mở mới biết được.
Theo ông Edgar Cayce, người được coi là có khả năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác: Đôi khi những hình ảnh trong trí nhớ gene được hiện ra qua những tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ, một hình ảnh nào đó khi đang thức, hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi được kích động bằng phương pháp thôi miên.
Các nhà khoa học thuộc Đại học Delhi (Ấn Độ) và Đại học Virginia (Mỹ) đã đưa ra một thống kê cho thấy, trẻ nhỏ có khả năng phát lộ trí nhớ gene mạnh hơn người lớn. Chúng thường sống lại “quá khứ xa xăm” của mình mà ngay bản thân và bố mẹ không hề biết. Chẳng hạn, nhiều đứa trẻ có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện này được xác định là có liên quan đến một người ở tiền kiếp. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan đến nước thì đứa trẻ này rất sợ nước. Nếu người ấy bị bắn chết thì đứa trẻ rất sợ tiếng nổ, hay trông thấy súng là hoảng sợ...
Theo sự phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson trong nhóm nghiên cứu, có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và ngược lại, nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái. Chính vì thế mà chúng có sở thích ăn mặc cũng như cử chỉ, dáng điệu phù hợp với giới tính của mình trước đó, tuy ngược hẳn với giới tính hiện tại.
Theo nhà siêu tâm lý Banglopp, những người bị chết bất đắc kỳ tử thường nhớ rõ về thời gian và những gì đã xảy ra ở kiếp trước khi họ bước vào một cuộc đời mới. Có lẽ cái chết bất ngờ của tiền kiếp, chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh, tử) đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ, khi vào thân xác mới vẫn giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng.
Còn một hiện tượng khác ít gây chú ý cho công chúng nhưng lại khiến các nhà nghiên cứu quan tâm, đó là thần đồng. Nó củng cố giả thuyết về “cuộc sống kiếp trước”. Có những thi sĩ, nhạc sĩ mới 10 tuổi, những sinh viên ở tuổi thiếu niên... Làm sao họ có ngay được nguồn vốn kiến thức và trí tuệ phức tạp đến như vậy? Câu trả lời của một số nhà khoa học là: Phần “phách” của nhiều thần đồng từng là của các nhạc sĩ, thi sĩ... Vào một thể xác mới, phần “phách” ấy nhớ lại niềm say mê cũ và làm cho thể xác mới có được những kỹ năng, kiến thức đã tích lũy từ kiếp trước.
Cho đến nay, các hiện tượng trên vẫn đang là câu hỏi lớn đối với giới khoa học. Sự nhớ lại kia là trí nhớ gene hay là sự “chuyển chỗ” của phách? Có giả thiết cho rằng, ký ức kiếp trước là một tập hợp thông tin được lưu giữ theo cách nào đó trong vũ trụ mà chỉ một số người có khả năng thu nhận.
Việc độ vong trong Kitô giáo và Phật giáo
Nguyễn Chính Kết, Việt Nam
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Người Công giáo coi tháng 11 dương lịch hàng năm là tháng cầu nguyện cho những người quá cố, còn gọi là tháng các Linh Hồn, mà cao điểm là ngày 2-11, là ngày Lễ Cầu Hồn. Nhưng người Phật tử và người theo "Ðạo tổ tiên" lại coi tháng 7 âm lịch hàng năm mới là tháng để tưởng nhớ, cúng kiếng và chú nguyện cho những người đã khuất, mà cao điểm là lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng 7, hay cũng gọi là ngày Xá Tội Vong nhân.
Phật tử cũng như Kitô hữu đều tin rằng sau khi chết còn có một đời sống khác, và những người còn sống ở trần gian có thể giúp đỡ người đã chết - hiện đang sống trong một đời sống khác - thoát khỏi canh khổ của họ, hay giảm bớt đau khổ cho họ. Tuy nhiên quan niệm về số phận của các vong nhân và về việc Ðộ Vong của hai tôn giáo này (độ vong: cứu những linh hồn đã quá cố đang đau khổ vì hình phạt) có nhiều điểm khác biệt.
Trong chiều hướng Hội Nhập Văn Hoá và tìm hiểu các Tôn giáo, chúng ta thử so sánh hai quan niệm ấy, đồng thời rút ra những điểm đồng dị.
I. Quan niệm của Kitô giáo: Số Phận Ðời Sau
Người Kitô hữu tin rằng con người chỉ có hai đời sống: đời này và đời sau.
Ðời này ngắn ngủi, hữu hạn, còn đời sau vĩnh cửu, vô hạn. Nhưng số phận của đời sau - hạnh phúc hay đau khổ - lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào cách sống của con người trong cuộc đời ngắn ngủi này, nhất là vào tình trạng tâm hồn trong giây phút cuối cùng của cuộc đời. Người nào khi chết vẫn có ân nghĩa với Thiên Chúa sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Người nào chết trong tình trạng thù nghịch với Ngài, tức mắc tội trọng, thì bị phạt đời đời xa cách Ngài là nguồn hạnh phúc của mình.
Sự Thanh Luyện
Tuy nhiên, để xứng đáng thấy Thiên Chúa, xứng đáng kết hiệp với Ngài, Ðấng tuyệt đối hoàn hảo, và để hưởng hạnh phúc đời đời, con người cũng phải trở nên hoàn hảo, trong trắng như Chúa Giêsu đã nói: "Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên Trời là Ðấng hoàn hảo" (Mt 5,48). "Nếu sự công chính của các con không vượt hơn những người Pharisiêu, các con không được vào Nước Trời" (Mt 5,20). "Phúc cho những tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa" (Mt 5,8). Hạnh phúc vĩnh cửu đòi hỏi gắt gao như thế thì dù những người thánh thiện nhất cũng không đạt được vì nhâ�n vô thập toàn". Do đó, để xứng đáng vào Nước Trời, để đạt được tình trạng hoàn hảo trên, con người cần phải được thanh luyện một thời gian trước khi vào.
Sự thanh luyện đó đã được Giáo Hội định tín trong công đồng chung thứ 14, năm 1274 tại Lyon: "Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là thanh luyện" (Ds 856/464). Tín điều đó đã được lặp lại trong nhiều công đồng sau đó (xem DS 1580/840; 1620/983; 1867/998...).
Mục đích của việc thanh luyện làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Ðàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế, thật là hợp lý, vì đó là một "nơi" (Tạm gọi như thế. Thật ra, Thiên Ðàng, Luyện ngục hay Hỏa ngục không phải là những nơi hiểu theo nghĩa không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn Thiên Ðàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện, còn Hỏa ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...), hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là "nơi" chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi điều đó.
Thật vậy, thử hỏi: khi trở về nơi lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu họ còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho ta và những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ náo không? Bản thân ta cũng vậy, ta sẽ còn đau khổ và còn làm người khác đau khổ nếu ta còn một chút xấu xa, ích kỷ, độc ác... chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Ðàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Ðàng rồi, và biến Thiên Ðàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Ðàng nữa. Do đó, Thiên Ðàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa, thì phải thanh luyện cho hết.
Sự thanh luyện đó được gọi là Luyện Ngục.
Chữ Ngục khiến người ta liên tưởng tới một nơi chốn, một cảnh tù đầy. Thực ra không nên hiểu cụ thể như thế. Nên hiểu đó là một tgình trạng của tâm hồn được thanh luyện, được thánh hoá bằng những đau khổ nội tại cũng như ngoại tại.
- Ðau khổ nội tại là đau khổ vì khát khao được ở gần Thiên Chúa, kết hợp với Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc của mình mà không đựơc. Sau khi chết, linh hồn hết sức sáng suốt để nhận ra Thiên Chúalà nhu cầu khẩn thiết nhất, là nguồn hạnh phúc đích thực của mình, nên lòng khao khát Thiên Chúa lúc đó hết sức lớn lao. Tương tự như người rất đói, rất thèm ăn, và có ngay trước mặt một mâm cơm thịnh soạn, đầy hấp dẫn với đủ thứ cao lương mỹ vị, mà lại bị trói chân, trói tay không ăn được. Hay như hai tình nhân yêu nhau tha thiết mà phải sống xa nhau.
- Còn đau khổ ngoại tại cũng được thần học bàn tới, nhưng không được định tín. Giáo Hội Hy lạp phủ nhận loại đau khổ này. Khổ hình này được thần học truyền thống gọi là "Lửa". Một vài Giáo hoàng diễn tả Luyện ngục có lửa. (Ðức Innocentiô IV (1243-1254) và Ðức Clêmentê VI (1342-1352) Lửa ở đời này là lửa mầu nhiệm, vừa là vật chất vừa là tinh thần, vì có thể vừa đốt được thân xác mà vừa đốt được các linh hồn). Sắc lệnh của công đồng chung Firence (1438-1445) không còn dùng từ ngữ "lửa" để diễn tả hình phạt nữa, vì các nghị phụ Hy lạp không chấp nhận. Các nhà thần học hiện nay cũng không thích lý thuyết nói về lửa đó nữa.
Trong tình trạng thanh luyện, người ta thường chỉ nghĩ tới đau khổ các linh hồn đang trông chờ ngày gặp mặt Chúa mà không lưu tâm tới tình trạng tích cực của họ. Chắc chắn các linh hồn ấy có một hạnh phúc rất lớn, rất căn bản là biết chắc chắn mình được cưu rỗi, được Thiên Chúa yêu thương, (xem Ds 1488/778.), đồng thời họ mến Chúa hết sức vì không còn gì trỏ ngại lòng yêu mến ây nữa, và họ cũng ý thức được sự cần thiết của việc thanh luyện này, nên họ sẵn sàng và ước ao chịu mọi khổ hình để sớm gặp Chúa. Lúc đó, khổ hìnbh đối với họ không còn là "khổ" nữa. Cũng như một thí sinh sẵn sàng chấp nhận mọi cực nhọc mệt mỏi của việc học để chuẩn bị một kỳ thi với hy vọng sẽ có một tương lai huy hoàng. Việc thanh luyện vì thế trở thành tự nguyện. Họ sung sướng vì được thanh luyện, đựoc khổ vì Chúa, vì tình yêu.
Việc Ðộ Vong
Thời gian thanh luyện lâu hay mau chắc chắn tùy thuộc vào tình trạng hay mức độ hoàn hảo của mỗi linh hồn và vào tình thương can thiệp của Chúa. Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn được thanh luyện theo những điều kiện nhất định, đó là một tín điều.
Công đồng Trentê định tín Lễ Misa có thể được dâng lên để cầu nguyện cho ngườisống và kẻ chết, cho họ được tha tội, tha hình phạt, cho việc đền tội và cho những nhu cầu khác, (xem Ds 1753/950) đặc biệt cho những người chết trong Ðức Kitô được tinh luyện (xem Ds 1743/940). Ngoài lễ Misa, các tín hữu còn có những hình thức độ vong khác (Ds 1820/693) như cầu nguyện, bố thí, và làm các việc đạo đức (xem Ds 856/464). Người còn sống có thể đền tội thay cho họ bằng những hy sinh hãm mình, chấp nhận những đau khổ Thiên Chúa gửi đến một cách vui vẻ, vì một chi thể có thể đền tội thay cho một chi thể khác trong cùng một thân thể, và lại, tội không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn có tính xã hội: sự liên đới chịu trách nhiệm. Ðương nhiên, tín hữu còn sống càng trong sạch thánh thiện bao nhiêu thì khả năng độ vong càng hữu hiệu bấy nhiêu: "Một chi thể chết" không thể giúp cho một chi thể khác "sống" được.
Mọi việc độ vong đều phải qua tay Thiên Chúa chứ không trực tiếp ảnh hưởng tới các linh hồn. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn luôn luôn tự do. Sự độ vong của chúng ta không phải là một pháp thuật có sức ép buộc Thiên Chúa phải tha cho các linh hồn theo ý ta, hay ảnh hưởng tới Thiên Chúa một cách máy móc, tự động theo những định luật.
Việc độ vong trong Giáo Hội bắt nguồn từ việc làm của Juda Macchabêô (2 Mcb 12,40-60). Thời đó, sau một trận đánh, có một số binh sĩ do thái tử trận. Khi lục soát các tử thi, người ta tìm ra dưới áo họ ẩn dấu các đồ vật để cúng tế các thần ngoại lai mà luật cấm. Người do thái tin rằng tuy họ chết đi, khi mang tội đó, nhưng họ vẫn được cưu rỗi. Họ cầu nguyện để xin Chúa tha tội cho những người ấy. Rồi họ quyên góp 2000 quan tiền nhờ Juda gửi lên Jerusalem để tế lễ chuộc tội. Bản văn khen ông: "Ðó là việc làm rất tốt lành và có giá trị cao quí do tin vào việc sống lại, vì nếu không tin vào sự sống lại thì cầu nguyện cho những người chết là uổng công vô ích. Nếu ông nghĩ tới phần thưởng dành cho họ thì quả là tư tưởng lành thánh và đạo đức. Vì thế, ông đã dâng lễ xá tội để người quá cố được tha thứ tội lỗi."
2. Quan niệm của Phật giáo: Luật Luân hồi và Nhân quả
Trước hết,người Phật tử quan niệm cuộc đời hiện tại không phải là kiếp sống duy nhất của mình mà chỉ là một trong hàng trăm ngàn kiếp sống kết tục nhau như những mắc xích trong cả một chuỗi xích dài vô tận. Kiếp hiện tại là quả của kiếp quá khứ mà cũng là nhân cho kiếp tương lai. Nghĩa là nếu kiếp này mình làm lành thì kiếp sau gặp hiền, làm ác thì kiếp sau gặp dữ. Bất cứ một động tĩnh nào trong tư tưởng, lời nói, hay việc làm xảy ra nơi con người, đều có nguyên nhân trong quá khứ và đều gây ra hậu quả trong tương lai. Ðó là luật nhân quả. Chuỗi nhân qủa không bao giờ chấm dứt. Vì thế, con người chết đi để bắt đầu một cuộc sống mới, một kiếp khác.Và cuộc sống mới này mang hình thức nào tùy thuộc cái nghiệp đã gây ra trong kiếp trước. Ðó là luật luân hồi.
Lục Ðạo
Luân hồi có 6 nẻo, gọi là Lục Ðạo, tức 6 cảnh giới, sau khi chết, con người sẽ phải đầu thai vào một cảnh giới trong đó tuỳ theo nghiệp lực đã tạo trong quá khứ. Lục Ðạo gồm có: Thiên, Nhân, Atula, Ngạ qủy, súc sinh, địa ngục (xếp theo mức độ từ sướng tới khổ).
Thiên : cảnh giới của loài "thiên thần" tốt lành, vô hình đối với con người, vì mang thân xác vi tế hơn con người, sống trong những điều kiện dễ dàng hạnh phúc hơn, đời sống cũng lâu dài hơn con người rất nhiều.
Nhân : cảnh giới của con người, điều kiện sống khó khăn hơn, nhưng lại là cảnh giới thuận tiện nhất để tu giải thoát, nhờ có sự quân bình tương đối giữa sướng và khổ.
Atula : cảnh giới của một loài "thiên thần " (cũng vô hình dưới mắt con người tương tự những sinh linh trong cảnh thiên, nhưng họ phải chịu nhiều đau khổ.) xấu. Là những sinh linh nhiều tham vọng, ham quyền lực, kiêu căng, ghen ghét, ganh tị... nên thường xuyên có chiến tranh, và những đau khổ thiên về thiên thần.
Ngạ Quỷ : (nghĩa là qủy đói) cảnh giới của những sinh linh tham lam vật chất, của cải, tiền bạc, lạc thú vật chất như ăn uống, nhục dục... (cũng vô hình dưới mắt con người). Lúc nào họ cũng khao khát những thứ đó mà không bao giờ được thỏa mãn, khiến họ luôn khổ đau.
Súc sinh : cảnh giới của loài vật mà chúng ta vẫn thấy: thú vật, chim chóc, cá... Ít hiểu biết, kém ý thức. Ðời sống thấp kém, hầu như không có đời sống tinh thần. Thường xuyên sống trong sợ hãi có thể bị thú khác hoặc bị người giết ăn thịt, hoặc có thể bị thúc đẩy đi giết các thú khác. Tất cả đều sợ đói.
Ðịa ngục : cảnh giới của những sinh linh độc ác, (cũng vô hình dưới mắt con người) hận thù, ích kỷ, ghen ghét, hay giận dữ, hay gây đau khổ cho người khác. Họ phải chịu những cực hình rất đau đớn, khắc nghiệt. Ðời sống trong các địa ngục dài hay ngắn tuỳ theo từng địa ngục khác nhau, tuỳ theo sự trầm trọng của điều xấu họ đã làm.
Tất cả các cảnh giới trên đều bị chi phối bởi luật vô thường, nên không có ai cứ được hay phải ở mãi trong một cảnh giới nào, vì không có một điều phúc đức nào vô cùng để đáng thưởng đời đời, mà cũng không có một tội ác nào vô cùng để đáng bị phạt đời đời cả. Do đó, sinh linh cứ tái sinh, cứ bị trôi lăn trong lục đạo đó mãi. Chỉ có những con người biết tu tập trí tuệ để giác ngộ được con đường giải thoát mới ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó.
Trong Lục Ðạo, chỉ có hai cảnh giới được coi là sướng, là cảnh giới Thiên vàNhân, nhưng cảnh giới Nhân là qúy hơn cả. Xét về hạnh phúc thì cảnh giới Thiên có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, nhưng chính vì thế, mà họ bị ru ngủ không muốn đi tìm sự giải thoát thật sự, để rồi khi họ hưởng hết phúc lành, họ lại rơi vào một cảnh giới khổ hơn. Các Atula thì tâm trí bị thu hút vào việc tranh cãi và hơn thua. Các Ngạ qủy thì quan tâm đến những thèm khát không được thỏa mãn. Súc sinh thì u mê chỉ nghĩ đến thức ăn và thoả mãn tính dục,.Còn sinh linh ở địa ngục thì bị hình khổ đủ cách, nên không có đầu óc đâu mà nghĩ đến Ðạo giải thoát. Chỉ có con người sướng khổ tương đối quân bình, nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát tâm đi tìm con đường giải thoát. Chỉ có con người là có nhiều tự do quyết định hơn cả, có đầu óc sáng suốt hơn cả, để có thể đạt tới trí tuệ giải thoát. Nên trong Lục Ðạo, chỉ có con người là có nhiều cơ may, nhiều khả năng để thành Phật nhất. Do đó theo Ðức Phật, được làm người là cả một cơ hội quý báu không nên uổng phí (kinh Duy Ma Cật, Phẩm Phật Ðạo, Phẩm 8 nói rõ điều đó).
Việc độ vong
Trong Phật giáo, không có quan niệm về một Ðấng Sáng Tạo, điều khiển và chi phối mọi sự. Tất cả đều xảy ra theo quy luật của vũ trụ. Một người bị rơi vào địa ngục hay đầu thai vào cảnh giới nào hoàn toàn không do một Ðấng Tối Cao nào phán xét và định đoạt cả. Cũng y như một người xử dụng dao không khéo bị đứt tay, hay một người ích kỷ bị mọi người ghét, một người vui vẻ được nhiều người thương. Ðó là luật Nhân Quả tác động một cách khách quan như bao định luật khác. Việc độ vong cũng chỉ dựa vào luật nhân quả mà cứu, chứ không cầu khẩn ai được cả. Cũng như muốn cứu một người bị điện giật, bị bệnh ung thư,... điều quan trọng là có biết cách cứu hay không, có biết những định luật về điện hay về bệnh tật hay không. Ðịnh luật có nhiều thứ, vật lý, tâm lý, siêu vật lý, siêu tâm lý...
Quan niệm của người Phật tử về việc độ vong căn cứ trên câu chuyện trong kinh Vu Lan: Mục Kiều Liên được Ðức Phật chỉ dạy cách cứu mẹ mình - là bà Thanh Ðề - thoát khỏi kiếp Ngạ qủy. Phật dạy ông mời những vị cao tăng vừa "an cư kiết hạ" (An cư kiết hạ: là thời gian Phật quy định cho chư tăng ở mỗi địa phương phải hội về một nơi thuận tiện để chuyên tu mỗi năm, từ 16/04 đến 15/07 âm lịch. Tương tự như tĩnh tâm, cấm phòng hay linh thao bên Kitô giáo.). Suốt ba tháng xong, tới chú nguyện để vong linh mẹ ông chuyển tâm địa độc ác thành tâm địa lành, nhờ đó mà thoát khỏi kiếp Ngạ quỷ, sinh vào cảnh giới hạnh phúc hơn.
Trong việc cứu bà Thanh Ðề, mẹ của Mục Kiều Liên, Phật đã áp dụng tới sức mạnh của sự chú nguyện (chú nguyện: chú là chú ý, tập trung tư tưởng, hay năng lực tinh thần vàoi việc gì; nguyện là cầu mong, ước muốn) khác với cầu nguyện bên Kitô giáo, chú nguyện là tập trung hết năng lực tinh thần của mình để ước muốn điều gì, năng lực được tập trung lại đó nếu dù có thể làm biến chuyển, thay đổi tình thế. Ðây là vấn đề sức mạnh của tư tưởng mà các nhà tâm lý học hiện đại đều công nhận), của rất nhiều nguời có năng lực tinh thần rất mạnh (các cao tăng sau thời gian tinh tấn tu hành - ba tháng "linh thao") để tác động vào bản thân của bà Thanh Ðề khiến bà thay đổi tâm địa (từ tâm ích kỷ bủn xỉn độc ác, thành tâm vị tha quảng đại từ bi). Tâm thay đổi thì sướng khổ cũng thay đổi theo như câu: "Tội tuỳ tâm sinh, tội tùng tâm diệt" hay "khô tuỳ tâm sinh, khổ tùng tâm diệt". Nhờ vậy bà thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, sinh vào cảnh giới lành, không có sự can thiệp của thần linh nào vào đây cả.
Lễ Vu Lan cũng như tháng 7 âm lịch là dịp để cho người Phật tử đặ�c biệt làm công việc cứu độ ấy bằng sự chú nguyện, không những cho cha mẹ ông bà tổ tiên mình mà còn cho nhiều người khác nữa.
Tìm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm
![]() |
Các nhà ngoại cảm đang tìm mộ liệt sĩ ở Trường Sơn. |
Tới nay, đã có gần 7 nghìn bộ hài cốt được các nhà ngoại cảm thuộc Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người tìm thấy, cùng với ít nhất 4 đề tài khoa học trong lĩnh vực này. Việc tìm hài cốt này có thể được giải thích bằng cơ sở khoa học.
Năm 1993, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng của Trung tâm tham gia phát hiện hài cốt 13 liệt sĩ ở Non Nước. Nhưng khả năng này của cô được phát hiện từ lâu trước đó. Đó là một lần giỗ bà nội, cô nhìn lên bàn thờ thấy bà ngồi cùng hai đứa bé. Hằng hoảng sợ hỏi ông nội: "Hai cậu bé ngồi cùng bà nội kia là ai?". Ông nội ngạc nhiên giải thích: "Con đầu của ông bà được hơn 1 tuổi thì chết, đến người con thứ 3 được hơn 2 tuổi cũng chết".
Rồi đến lần đi trên bờ ruộng giữa 2 bên mênh mông nước, Hằng nhìn thấy có những bộ xương người bên dưới. Những chuyện "nhìn thấy" như vậy cứ lặp lại, và chuyện Hằng có khả năng tìm mộ cũng bắt đầu từ đấy. Có điều - như Hằng cho biết - mọi chuyện "kỳ lạ" ở Hằng chỉ diễn ra sau lần cận kề cái chết do bị chó dại cắn...
Bẵng đi nhiều năm, cuối năm 2004, tin Hằng tìm và xác định được danh tính 3 liệt sĩ là những chiến sĩ cảm tử thuộc trung đoàn Bảo vệ Thủ đô trong khuôn viên Trường THCS Trưng Vương (HN) đã khiến nhiều người cảm kích. Chuyện kỳ lạ về những người đi tìm mộ lại được nói đến ngày một nhiều.
Tìm hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính trên mộ liệt sĩ vô danh là công việc vô cùng khó khăn. Điều kiện tiên quyết để tìm thấy mộ là phải có một người thân đồng huyết thống. Bích Hằng cần có ảnh liệt sĩ để giao tiếp với liệt sĩ qua ảnh (sau đó ra thực địa để xác định nơi có hài cốt). Nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng sử dụng phương pháp bắt mạch thái tố để biết quá khứ, hiện tại và tương lai của thân nhân liệt sĩ, trong đó có xác định mộ liệt sĩ. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bẩy thì quan sát ấn trường của thân nhân liệt sĩ để vẽ sơ đồ mộ chí, đường đi tới mộ và ra thực địa để xác định vị trí mộ.
Việc tìm mộ đã khó, nhưng tìm thân nhân cho liệt sĩ (mộ vô danh) còn khó hơn nhiều bởi các nhà ngoại cảm phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để "giao tiếp" với "vong" người nằm dưới mộ nhằm lấy đủ các thông tin: Tên liệt sĩ, quê quán, tên những người thân còn có thể tìm kiếm được... Đây là những thông tin của người đã khuất chỉ dẫn đi tìm người sống.
Trong năm 2004, nhóm các nhà ngoại cảm thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã tiến hành tìm kiếm hàng trăm trường hợp liệt sĩ vô danh, có nhiều trường hợp rất đáng chú ý. Theo một ghi chép của Trung tâm, tại nghĩa trang liệt sĩ Mường Thanh, các nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng, Phan Thị Bích Hằng và Nguyễn Khắc Bẩy đã "giao tiếp" được với 30 liệt sĩ.
Liệt sĩ Trần Văn Chính "cho biết" quê ông ở xã Phú Hộ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ, là dân công đi phục vụ ở Điện Biên Phủ. Các nhà ngoại cảm cho biết được liệt sĩ Chính nhờ nhắn cho bạn là Trần Thọ Vệ, đã từng học lục quân Trần Quốc Tuấn khóa 4, hiện còn sống ở xã Phú Hộ. Ngày 11/9/2004, các nhà nghiên cứu thuộc bộ môn Cận Tâm lý của Trung tâm đã tìm được ông Trần Thọ Vệ ở xã Phú Hộ. Ông Trần Thọ Vệ đưa các nhà nghiên cứu đến gia đình liệt sĩ Trần Văn Chính.
Còn liệt sĩ Trần Văn Thanh, sau khi "kể" chuyện ông được đồng đội gọi là "Thanh con" vì trẻ tuổi và nhỏ người, còn gửi lời hỏi thăm chỉ huy Trương Tích Phong ở Lệ Mật, Gia Lâm, Hà Nội và nói rõ: "Tôi là người mang thủ trưởng Phong ra khỏi hầm bị sập ở chân đồi A1. Thủ trưởng Phong cũng tốt nghiệp lục quân Trần Quốc Tuấn khóa 4". Những thông tin này về sau đã được ông Trương Tích Phong xác nhận.
Cuối tháng 10/2004, Phan Thị Bích Hằng cùng một số thành viên bộ môn Cận Tâm lý đã trực tiếp tiến hành khai quật tìm 3 liệt sĩ có tên là Phan Hào, Nguyễn Văn Dư và Nguyễn Văn Đẳng. Các cựu chiến binh (đa số là cán bộ cao cấp của tiểu đoàn 77 hiện còn sống) đã xác nhận đồng chí Phan Hào là trung đội trưởng, Nguyễn Văn Dư là chính trị viên, Nguyễn Văn Đảng là chiến sĩ trung đội 1, đại đội 1, tiểu đoàn 77, hy sinh ngày 21/12/1946 trong trận đánh bảo vệ Bộ Quốc phòng (khi đó đặt tại trường Trưng Vương, 26 Hàng Bài, HN). Có một chi tiết khá đặc biệt: "Vong" liệt sĩ cho biết đồng chí Dư hy sinh khi bị mất đầu, anh em lấy một cái bát úp vào cổ. Khi khai quật, những người tìm kiếm đã tìm thấy cái bát bộ đội dùng thời đó. Hài cốt liệt sĩ Phan Hào đã được cháu ruột là Phan Bích Hạnh tới nhận.
Theo tiến sĩ Nguyễn Chu Phác, xem xét dưới góc độ khoa học hiện đại, việc "thấy" của các nhà nghiên cứu gọi là "thiên nhãn thông" - một trong 10 lợi ích của thiền định. Trường hợp Bích Hằng tìm mộ cụ Lương Ngọc Quyến mất năm 1917 ở đồi Vô Tranh, Phú Lương (Thái Nguyên), nhiều chi tiết nói về địa hình... trước khi gia đình đi thực địa đều đúng. Cũng có khi nhà ngoại cảm "thấy" được "vong" xuất hiện rõ là nam hay nữ, người già hay trẻ em, thậm chí thấy trên mặt có nốt ruồi hay sẹo ở đâu, khi hy sinh bị đạn vào chỗ nào...
Quan trọng nhất vẫn là đặc điểm về hài cốt hoặc vật chôn theo. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bẩy đã nói trước khi gia đình bà Trần Thị Bảo và ông Trương Ngọc Thuận đi tìm mộ bố là 11 giờ sẽ có một cô gái răng vẩu ra chỉ mộ, khi đào lên hài cốt có chôn theo mấy đồng tiền cũ và mọi việc đã diễn ra đúng như vậy.
Để "thấy", nhà ngoại cảm phải nhắm mắt lại và hình ảnh cần "thấy" sẽ hiện lên trong đầu. Giáo sư Nguyễn Ngọc Kha giải thích cơ sở của hiện tượng này là "tổ chức lưới" đặc biệt dưới vỏ não đã tạo ra "trực giác xuất thần". Ở một số người mà hệ thần kinh chịu những sang chấn đặc biệt như chết lâm sàng, điện giật, đau quá nặng... những sang chấn đó được hoạt hóa vùng dưới vỏ, tương tác mạnh với vỏ não và xuất hiện ra ngoài các khả năng đặc biệt.
(Theo Lao Động)
Có hay không Kiếp Luân hồi?
Sau khi chết, con người có “trở lại” mặt đất theo một vài dạng khác không? Giới khoa học phương Tây và các chuyên gia tâm lý đã dày công nghiên cứu một cách có hệ thống về “kiếp luân hồi” từ rất lâu nhằm phân tích dưới ánh sáng khoa học về bản chất vấn đề. Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến “kiếp trước” hoặc sự “đầu thai vào kiếp sau”. Rồi họ nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ, logic và nghiêm túc. Nếu phát hiện ra điều gì đó “không bình thường”, họ liền phân tích một cách chuyên sâu hơn nhằm khám phá xem có liên quan gì tới “kiếp luân hồi” – theo quan điểm tín ngưỡng cố hữu không?
“Mảnh đất màu mỡ” cho các cuộc nghiên cứu nói trên đa số là các trẻ em. Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ), bắt đầu kể về “kiếp trước” của mình trong thời còn là một bé gái. Người mẹ thì cho rằng con bé nói rặt những chuyện ngốc nghếch và luôn tìm cách ngắt lời đứa bé. Nhưng Roberta vẫn không ngừng kể về “cha mẹ trước đây” của mình. Em còn kể về chiếc ôtô mà “người cha kiếp trước” từng có và khẳng định rằng em đã cùng sống với “cha mẹ cũ” tại một khu trang trại. Khi bé gái lên 4 tuổi, em được dẫn tới một trại chuyên thuần ngựa nòi. Roberta rất tự nhiên và phấn chấn nói: “Con từng cưỡi ngựa thuần thục nhiều lần rồi”. Thật ra, em đã trèo lên mình ngựa bao giờ đâu. Roberta còn đòi mẹ làm những món thức ăn “khoái khẩu” mà “mẹ trước” đã từng nấu. Em tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quãng đời “kiếp trước” của mình và không bao giờ nhớ lại được nữa (?!).
Còn Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo (Sri Lanka). Trước khi bé biết nói, cha mẹ nhận thấy rằng em rất sợ… nước. Mỗi khi người mẹ định tắm cho bé, đều gặp phải các phản ứng dữ dội cùng tiếng kêu khóc. Em còn rất sợ ôtô. Khi Samlini nói được, em đã mô tả “quãng đời trước đây” của mình một cách tỉ mỉ. Em kể: “Một hôm cha mẹ “kiếp trước” sai em đi mua bánh mì. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buýt đi sát bên cạnh, hất em xuống đồng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: “Mẹ ơi!”. Sau đó, em bị chìm hẳn vào giấc ngủ vô biên”.
Cha mẹ của Samlini suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Sau đó một thời gian, họ biết được câu chuyện của một bé gái 11 tuổi từng bị chết đuối trong hoàn cảnh tương tự, y hệt câu chuyện mà cô con gái họ đã kể lại. Còn bản thân Samlini Permac không thể biết được sự kiện này vào bất cứ trường hợp nào, bởi đơn giản lúc ấy bé chưa ra đời (?!).
Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lý học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson - người đã nghiên cứu các hiện tượng về “kiếp trước” suốt nửa thế kỷ nay - kể lại. Ông cùng các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Tổng hợp Virginia đã thử tìm các bằng chứng, được tồn tại như một “thực trạng X”, mặc dù không tìm được những yếu tố vô lý trong “các X” và họ cũng không thể lý giải chúng dưới ánh sáng khoa học được. Giáo sư Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như “ảo giác” - nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. Còn một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đã từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự “đầu thai” hoặc “kiếp luân hồi” hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thuyết, chứ chưa “dám” nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.
Trước đây nhiều năm, đa số các nhà khoa học phủ nhận sự “đầu thai”, cho đó là một trò “hoàn toàn lừa bịp”. Nhưng ngày nay đa phần trong số họ đã thừa nhận hiện tượng này như là một phương cách chữa các chứng khủng hoảng tâm lý. Còn Giáo sư Tiến sĩ Abraham Kelsy, Trưởng khoa Y học lâm sàng của Viện Đại học New York, trong các thực nghiệm riêng của mình đã dùng những phương pháp giúp các bệnh nhân nhớ lại “quãng đời kiếp trước” của họ, và bằng cách này giúp họ giải phóng khỏi những vướng mắc hiện tại.
Ông giải thích: “Tôi đã rút ra được kết luận là, rất nhiều biểu hiện hiện tại của người bệnh là hệ lụy của kiếp trước và chính chúng là những trở ngại phong tỏa nghị lực của cuộc sống thực tại. Theo tôi, cơ thể con người luôn mang sẵn những thứ phi vật chất, những thứ vẫn tồn tại sau khi thân xác đã chết. Nôm na như người phương Đông gọi là “hồn”. Chính thứ “hồn” này được tái sinh - đầu thai lại. Niềm tin này của tôi càng được củng cố qua các phân tích tỉ mỉ về “chất lượng riêng” của mỗi cá nhân. Tại sao trong một gia đình, trẻ em thường khác biệt nhau, dù rằng chúng được sinh ra cùng cha cùng mẹ, có cùng một tổng thể gien và lớn lên trong cùng một môi trường? Rất nhiều trẻ em, khi đang chơi, luôn có xung quanh chúng “những người bạn vô hình” nào đó mà chúng luôn cho là đang hiện hữu thật sự. Tới độ 4-5 tuổi, thứ cảm giác ấy đột nhiên biến mất. Điều này theo các nhà khoa học chính là kỷ niệm về những người bạn “kiếp trước” của chúng.
Vẫn chưa có một nhà tâm lý học nào có thể giải thích một cách logic về những cá tính khác nhau, cũng như các “chất lượng cá nhân” khác nhau của đám con trẻ được sinh ra từ một gia đình chung. Trong từng trường hợp, thể hiện những dấu hiệu ảnh hưởng từ “kiếp trước”, được giới tâm lý học nêu ra các giả thuyết về những “biến dạng của tâm lý”: như mê ngủ, nghe hoặc đọc được ở đâu đó… Giới vương quyền Ai Cập thời cổ cũng từng hay nói về các “kiếp luân hồi”, cả Hoàng đế Pháp Napoléon, cũng như nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng khác cũng vậy – những người thường nhớ về “kiếp trước”, để chỉ muốn tạo ra cái ấn tượng về “xuất xứ thần thánh” của họ. Đa phần trong chúng ta không hề gợi nhớ lại “kiếp trước” ngay cả qua những cách tân tiến hoàn thiện nhất. Trong trường hợp đó, không tồn tại quan niệm “đầu thai” trong thực tế. Ngoài ra cũng còn nhiều điểm bất đồng ngay cả giữa những người vốn luôn tin vào “kiếp trước”.
Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến trình này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng “đầu thai” trong “vòng xoay luân hồi” của mỗi người. Kireiina (Theo Công An Nhân Dân)
No comments:
Post a Comment