By duyanh
Created 2007-01-01 06:31
Marx-Popper
Các phương tiện truyền thông đại chúng, chính phủ, nền kinh tế, gia đình, hệ thống y tế, tất cả đều là những ví dụ về các định chế xã hội có trong xã hội của chúng ta.
Các định chế xã hội (social institutions) là những kết cấu có tổ chức của những tín điều và các thế xử sự mà nhắm vào các nhu cầu xã hội cơ bản, như thay thế người (gia đình) và giữ gìn trật tự (chính phủ) chẳng hạn.
Quan điểm chịu ảnh hưởng của Marx về các định chế xã hội:
Sự tổ chức hiện tại của các định chế xã hội không phải ngẫu nhiên mà có. Các định chế chính, như giáo dục chẳng hạn, giúp duy trì đặc quyền đặc lợi của những cá nhân và những nhóm quyền thế nhất bên trong một xã hội, đồng thời còn góp phần cho sự mất quyền thế (powerlessness) của những người khác.
Chẳng hạn như, các trường công ở Mỹ được cấp kinh phí phần lớn là từ các khoản thuế đánh vào tài sản. Điều này cho phép những vùng khá giả cung cấp cho con cái họ những trường học được trang bị rất tốt và những thầy cô được trả lương rất hậu, điều mà các vùng lợi tức thấp chẳng thể nào làm được. Kết quả là, trẻ em ở các cộng đồng giàu được chuẩn bị để cạnh tranh học vấn tốt hơn trẻ em ở các khu nhà nghèo.
Cấu trúc của hệ thống giáo dục này cho phép và thậm chí còn cổ động cho chuyện đối xử trẻ đi học một cách thiếu công bằng.
Quan điểm chịu ảnh hưởng của Marx về các phương tiện thông tin đại chúng cho rằng:
Các phương tiện thông tin đại chúng phản ảnh và thậm chí còn làm trầm trọng thêm cho những phân cách trong xã hội, kể cả những phân cách (phân biệt) dựa trên giới tính, chủng tộc, màu da và tầng lớp xã hội.
Để hiểu rõ hơn về sự phân cách này do các phương tiện truyền thông tạo ra bằng cách nào cần tìm hiểu thêm về chức năng gác cổng.
Bạn có bao giờ đặt câu hỏi: Câu chuyện nào được đưa lên trang nhất của một tờ báo buổi sáng? Bộ phim nào nên được trình chiếu tại ba rạp thay vì một? Bức ảnh nào không nên tung ra đây? Tin tức nào nên đưa vào chương trình phát thanh buổi tối? Ẩn giấu đàng sau các quyết định ấy thường là những nhân vật đầy quyền thế, chẳng hạn các chủ nhà xuất bản, tổng biên tập, những ông vua truyền thông khác chẳng hạn như ông chủ của CNN, Fox...
Bên trong các phương tiện truyền thông đại chúng là một nhóm người tương đối nhỏ đang kiểm soát những gì mà dần dà vươn tới khác thính giả, độc giả. Một tiến trình có tên là sự gác cổng (gate-keeping) mô tả việc chất liệu phải du hành ra sao thông qua một loạt những chốt hay qua cổng trước khi chúng đến được với công chúng.
Những ông chủ của các tập đoàn truyền thông sẽ là những người quyết định những hình ảnh nào được đưa ra cho đông đảo người xem, người đọc.
Một số quốc gia khác thì nhà nước đóng vai trò này. Và họ chính là những người đóng vai trò quan trọng trong việc gác cổng.
Điều đáng quan tâm đó là những người đóng vai trò quyết định trong các phương tiện truyền thông đại chúng tuyệt đại đa số là Da trắng, nam giới và hết sức giàu có. Do đó, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các phương tiện truyền thông đại chúng có khuynh hướng phớt lờ cuộc sống và tham vọng của những nhóm thứ yếu, trong số đó có người lao động, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc La Tinh và những người đồng tính luyến ái, những người khuyết tật, những người béo phì và người già.
Tệ hơn nữa là nội dung của chúng có thể tạo nên những hình ảnh sai lạc hay những cái mẫu rập khuôn về các nhóm ấy, để rồi trở nên được chấp nhận như thể những mô tả chính xác thực tại.
Marx cho rằng: “Các triết gia chỉ biết giải thích thế giới theo nhiều cách khác nhau, nhưng vấn đề là phải thay đổi xã hội”.
Marx là một trong những người nhìn thấy được bản chất của những mâu thuẫn xã hội, không những thế ông còn tìm cách để thay đổi xã hội nhằm đạt đến một xã hội công bằng hơn.
Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy sinh viên xuất thân các gia đình có đặc quyền nhiều hơn được định hướng theo các khóa dự bị đại học thường tham gia vào các ngành nghề mà sau khi tốt nghiệp, nghề nghiệp họ được đào tạo mang lại nhiều danh tiếng và thu nhập cao hơn ví dụ như nhà quản lý, bác sĩ, chính trị gia… Hơn thế nữa, đặc quyền này kéo dài từ thế hệ này qua thế hệ khác do con cái được thừa hưởng từ bố mẹ. Đó là hiện trạng “con vua thì lại làm vua” thường thấy không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia phương Tây khác.
Ngược lại những sinh viên xuất thân trong các gia đình thấp kém thường được định hướng nghề nghiệp thấp kém hơn so với năng lực thật sự của họ. Do đó sau khi ra trường họ sẽ phải tham gia vào các ngành nghề thu nhập kém và ít được kính trọng. Con cái họ sau này cũng sẽ được định hướng nghề nghiệp tương tự như thế. Và cứ thế, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác.
Những nhóm thống trị - người giàu trong mối liên hệ với người nghèo, người da trắng trong mối liên hệ với người không phải da trắng, và nam giới trong mối liên hệ với nữ giới – thường cố gắng bảo vệ đặc quyền của mình bằng cách kiên quyết ủng hộ nguyên trạng, phản đối sự thay đổi trong xã hội.
Khi ấy những người chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Marx đặt ra những câu hỏi rất căn bản: “Nhóm người (giai cấp) nào hưởng lợi từ những sắp xếp xã hội cụ thể? Nhóm người (giai cấp) nào bị thiệt hại? Liệu những giai cấp bị thiệt hại có quyền đứng lên đấu tranh để đòi công bằng hay không? Hay là chấp nhận chịu sự thiệt hại do xã hội gây ra cho họ?
Để các bạn có một cái nhìn thấu suốt hơn về quan điểm chịu ảnh hưởng của Marx về xã hội. Tôi sẽ phân tích về vấn đề thể thao:
Thể thao là một định chế phổ biến ở tất cả các nền văn hóa khác nhau. Nó góp phần hình thành nên trật tự xã hội. Tuy nhiên trật tự đó đầu sự cưỡng chế và bóc lột.
Các môn thể thao phản ảnh và thậm chí còn làm trầm trọng thêm nhiều phân cách xã hội.
- Thể thao là một hình thức kinh doanh khổng lồ; trong đó, lợi nhuận quan trọng hơn là sức khỏe và sự an toàn của công nhân (ở đây là các vận động viên). Các vận động viên thường bị các ông bầu (những nhà tư bản) trả một mức lương không tương xứng với năng lực và do đó bị bóc lột sức lao động.
- Thể thao tạo sự bất diệt cho ý tưởng sai lầm cho rằng người ta có thể giành được sự thành công đơn giản chỉ bằng cách dựa vào chuyên cần, trong khi chỉ nên đổ lỗi sự thất bại cho riêng cá nhân mà thôi (thay vì cho những bất công trong hệ thống xã hội rộng lớn hơn).
- Thể thao được dùng như một thứ "thuốc phiện" khuyến khích người ta tìm kiếm sự ổn định tạm bợ thay vì chuyên chú vào các vấn nạn cá nhân và các hiện tình xã hội.
- Thể thao duy trì vai trò lệ thuộc của người Da đen và người Mỹ la tinh, những người mà phải làm quần quật như những vận động viên, nhưng lại không được thấy mặt trong các địa vị quản lý như huấn luyện viên, quản đốc và chủ nhân.
Sự bất công, sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp xã hội nhìn thấy rất rõ qua các môn thể thao. Chẳng hạn như môn golf, quần vợt chỉ dành cho tầng lớp quý tộc và thượng lưu.
Các bạn nói về sự bất công trong xã hội VN hơi nhiều và bị choáng ngợp trước sự giàu có, xa hoa của xã hội Mỹ nên không nhìn thấy được sự bất công kinh khủng trong xã hội Mỹ.
Bài viết sau sẽ phân tích những sự bất công trong xã hội Mỹ từ góc nhìn trong lĩnh vực trắc nghiệm của giáo dục chính quy Mỹ.
Ở Mỹ, trắc nghiệm do các nhà giáo dục giàu có, người da trắng nghĩ ra rất cả thể có ít nhất một số thành kiến nhất định để ủng hộ những người da trắng, giàu có dự thi trắc nghiệm.
Các trắc nghiệm chuẩn hóa sử dụng ở Mỹ phản ánh văn hóa thống trị của nước Mỹ, vì thế đặt một số nhóm người ở vào thế bất lợi thật không công bằng.
Hãy thử nghĩ xem một nhóm trẻ em không nhỏ sống cuộc sống nghèo khó ở nước Mỹ không thể nào trả lời được những câu trắc nghiệm được những người da trắng giàu có soạn ra dựa trên nền văn hóa của những người giàu có.
Khi đó, những trẻ em đó bị "gán nhãn" cho là thiếu thông minh, không đủ năng lực để theo học các trường có chất lượng cao ở Mỹ bởi vì không đủ điểm số trong những bài thi trắc nghiệm chứa đựng nhiều bất công.
Trong thực tế, những học sinh có nền tảng xã hội đặc quyền (thường là những người da trắng giàu có) rất có thể được xếp đặt ở những lớp học được đầu tư lớn, thầy cô giáo dạy giỏi, có trách nhiệm. Trong khi những học sinh có đặc quyền thấp kém hơn (thường là những học sinh nghèo) thì phải chịu học ở các lớp học ít được đầu tư hơn, thầy cô giáo dạy không tốt, thiếu trách nhiệm hơn do đồng lương thấp hơn.
Hơn thế nữa, những em được học trong một môi trường tốt thường có khuynh hướng tự xem mình là thông minh và có tài, trong khi những em nhiều năm học trong những trường không tốt giảm đi lòng tự tin và sự tự trọng của mình đi rất nhiều.
Chính điều này ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp và tương lai của các em sau này. Và qua đó cũng phản ảnh rất rõ ràng sự bất công trong giáo dục của xã hội Mỹ.
Từ đứa trẻ giang hồ trở thành nhà khoa học giải Nobel
09:45-19/10/2007 
Các phương tiện truyền thông đại chúng, chính phủ, nền kinh tế, gia đình, hệ thống y tế, tất cả đều là những ví dụ về các định chế xã hội có trong xã hội của chúng ta.
Các định chế xã hội (social institutions) là những kết cấu có tổ chức của những tín điều và các thế xử sự mà nhắm vào các nhu cầu xã hội cơ bản, như thay thế người (gia đình) và giữ gìn trật tự (chính phủ) chẳng hạn.
Quan điểm chịu ảnh hưởng của Marx về các định chế xã hội:
Sự tổ chức hiện tại của các định chế xã hội không phải ngẫu nhiên mà có. Các định chế chính, như giáo dục chẳng hạn, giúp duy trì đặc quyền đặc lợi của những cá nhân và những nhóm quyền thế nhất bên trong một xã hội, đồng thời còn góp phần cho sự mất quyền thế (powerlessness) của những người khác.
Chẳng hạn như, các trường công ở Mỹ được cấp kinh phí phần lớn là từ các khoản thuế đánh vào tài sản. Điều này cho phép những vùng khá giả cung cấp cho con cái họ những trường học được trang bị rất tốt và những thầy cô được trả lương rất hậu, điều mà các vùng lợi tức thấp chẳng thể nào làm được. Kết quả là, trẻ em ở các cộng đồng giàu được chuẩn bị để cạnh tranh học vấn tốt hơn trẻ em ở các khu nhà nghèo.
Cấu trúc của hệ thống giáo dục này cho phép và thậm chí còn cổ động cho chuyện đối xử trẻ đi học một cách thiếu công bằng.
Quan điểm chịu ảnh hưởng của Marx về các phương tiện thông tin đại chúng cho rằng:
Các phương tiện thông tin đại chúng phản ảnh và thậm chí còn làm trầm trọng thêm cho những phân cách trong xã hội, kể cả những phân cách (phân biệt) dựa trên giới tính, chủng tộc, màu da và tầng lớp xã hội.
Để hiểu rõ hơn về sự phân cách này do các phương tiện truyền thông tạo ra bằng cách nào cần tìm hiểu thêm về chức năng gác cổng.
Bạn có bao giờ đặt câu hỏi: Câu chuyện nào được đưa lên trang nhất của một tờ báo buổi sáng? Bộ phim nào nên được trình chiếu tại ba rạp thay vì một? Bức ảnh nào không nên tung ra đây? Tin tức nào nên đưa vào chương trình phát thanh buổi tối? Ẩn giấu đàng sau các quyết định ấy thường là những nhân vật đầy quyền thế, chẳng hạn các chủ nhà xuất bản, tổng biên tập, những ông vua truyền thông khác chẳng hạn như ông chủ của CNN, Fox...
Bên trong các phương tiện truyền thông đại chúng là một nhóm người tương đối nhỏ đang kiểm soát những gì mà dần dà vươn tới khác thính giả, độc giả. Một tiến trình có tên là sự gác cổng (gate-keeping) mô tả việc chất liệu phải du hành ra sao thông qua một loạt những chốt hay qua cổng trước khi chúng đến được với công chúng.
Những ông chủ của các tập đoàn truyền thông sẽ là những người quyết định những hình ảnh nào được đưa ra cho đông đảo người xem, người đọc.
Một số quốc gia khác thì nhà nước đóng vai trò này. Và họ chính là những người đóng vai trò quan trọng trong việc gác cổng.
Điều đáng quan tâm đó là những người đóng vai trò quyết định trong các phương tiện truyền thông đại chúng tuyệt đại đa số là Da trắng, nam giới và hết sức giàu có. Do đó, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các phương tiện truyền thông đại chúng có khuynh hướng phớt lờ cuộc sống và tham vọng của những nhóm thứ yếu, trong số đó có người lao động, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc La Tinh và những người đồng tính luyến ái, những người khuyết tật, những người béo phì và người già.
Tệ hơn nữa là nội dung của chúng có thể tạo nên những hình ảnh sai lạc hay những cái mẫu rập khuôn về các nhóm ấy, để rồi trở nên được chấp nhận như thể những mô tả chính xác thực tại.
Marx cho rằng: “Các triết gia chỉ biết giải thích thế giới theo nhiều cách khác nhau, nhưng vấn đề là phải thay đổi xã hội”.
Marx là một trong những người nhìn thấy được bản chất của những mâu thuẫn xã hội, không những thế ông còn tìm cách để thay đổi xã hội nhằm đạt đến một xã hội công bằng hơn.
Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy sinh viên xuất thân các gia đình có đặc quyền nhiều hơn được định hướng theo các khóa dự bị đại học thường tham gia vào các ngành nghề mà sau khi tốt nghiệp, nghề nghiệp họ được đào tạo mang lại nhiều danh tiếng và thu nhập cao hơn ví dụ như nhà quản lý, bác sĩ, chính trị gia… Hơn thế nữa, đặc quyền này kéo dài từ thế hệ này qua thế hệ khác do con cái được thừa hưởng từ bố mẹ. Đó là hiện trạng “con vua thì lại làm vua” thường thấy không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia phương Tây khác.
Ngược lại những sinh viên xuất thân trong các gia đình thấp kém thường được định hướng nghề nghiệp thấp kém hơn so với năng lực thật sự của họ. Do đó sau khi ra trường họ sẽ phải tham gia vào các ngành nghề thu nhập kém và ít được kính trọng. Con cái họ sau này cũng sẽ được định hướng nghề nghiệp tương tự như thế. Và cứ thế, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác.
Những nhóm thống trị - người giàu trong mối liên hệ với người nghèo, người da trắng trong mối liên hệ với người không phải da trắng, và nam giới trong mối liên hệ với nữ giới – thường cố gắng bảo vệ đặc quyền của mình bằng cách kiên quyết ủng hộ nguyên trạng, phản đối sự thay đổi trong xã hội.
Khi ấy những người chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Marx đặt ra những câu hỏi rất căn bản: “Nhóm người (giai cấp) nào hưởng lợi từ những sắp xếp xã hội cụ thể? Nhóm người (giai cấp) nào bị thiệt hại? Liệu những giai cấp bị thiệt hại có quyền đứng lên đấu tranh để đòi công bằng hay không? Hay là chấp nhận chịu sự thiệt hại do xã hội gây ra cho họ?
Để các bạn có một cái nhìn thấu suốt hơn về quan điểm chịu ảnh hưởng của Marx về xã hội. Tôi sẽ phân tích về vấn đề thể thao:
Thể thao là một định chế phổ biến ở tất cả các nền văn hóa khác nhau. Nó góp phần hình thành nên trật tự xã hội. Tuy nhiên trật tự đó đầu sự cưỡng chế và bóc lột.
Các môn thể thao phản ảnh và thậm chí còn làm trầm trọng thêm nhiều phân cách xã hội.
- Thể thao là một hình thức kinh doanh khổng lồ; trong đó, lợi nhuận quan trọng hơn là sức khỏe và sự an toàn của công nhân (ở đây là các vận động viên). Các vận động viên thường bị các ông bầu (những nhà tư bản) trả một mức lương không tương xứng với năng lực và do đó bị bóc lột sức lao động.
- Thể thao tạo sự bất diệt cho ý tưởng sai lầm cho rằng người ta có thể giành được sự thành công đơn giản chỉ bằng cách dựa vào chuyên cần, trong khi chỉ nên đổ lỗi sự thất bại cho riêng cá nhân mà thôi (thay vì cho những bất công trong hệ thống xã hội rộng lớn hơn).
- Thể thao được dùng như một thứ "thuốc phiện" khuyến khích người ta tìm kiếm sự ổn định tạm bợ thay vì chuyên chú vào các vấn nạn cá nhân và các hiện tình xã hội.
- Thể thao duy trì vai trò lệ thuộc của người Da đen và người Mỹ la tinh, những người mà phải làm quần quật như những vận động viên, nhưng lại không được thấy mặt trong các địa vị quản lý như huấn luyện viên, quản đốc và chủ nhân.
Sự bất công, sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp xã hội nhìn thấy rất rõ qua các môn thể thao. Chẳng hạn như môn golf, quần vợt chỉ dành cho tầng lớp quý tộc và thượng lưu.
Các bạn nói về sự bất công trong xã hội VN hơi nhiều và bị choáng ngợp trước sự giàu có, xa hoa của xã hội Mỹ nên không nhìn thấy được sự bất công kinh khủng trong xã hội Mỹ.
Bài viết sau sẽ phân tích những sự bất công trong xã hội Mỹ từ góc nhìn trong lĩnh vực trắc nghiệm của giáo dục chính quy Mỹ.
Ở Mỹ, trắc nghiệm do các nhà giáo dục giàu có, người da trắng nghĩ ra rất cả thể có ít nhất một số thành kiến nhất định để ủng hộ những người da trắng, giàu có dự thi trắc nghiệm.
Các trắc nghiệm chuẩn hóa sử dụng ở Mỹ phản ánh văn hóa thống trị của nước Mỹ, vì thế đặt một số nhóm người ở vào thế bất lợi thật không công bằng.
Hãy thử nghĩ xem một nhóm trẻ em không nhỏ sống cuộc sống nghèo khó ở nước Mỹ không thể nào trả lời được những câu trắc nghiệm được những người da trắng giàu có soạn ra dựa trên nền văn hóa của những người giàu có.
Khi đó, những trẻ em đó bị "gán nhãn" cho là thiếu thông minh, không đủ năng lực để theo học các trường có chất lượng cao ở Mỹ bởi vì không đủ điểm số trong những bài thi trắc nghiệm chứa đựng nhiều bất công.
Trong thực tế, những học sinh có nền tảng xã hội đặc quyền (thường là những người da trắng giàu có) rất có thể được xếp đặt ở những lớp học được đầu tư lớn, thầy cô giáo dạy giỏi, có trách nhiệm. Trong khi những học sinh có đặc quyền thấp kém hơn (thường là những học sinh nghèo) thì phải chịu học ở các lớp học ít được đầu tư hơn, thầy cô giáo dạy không tốt, thiếu trách nhiệm hơn do đồng lương thấp hơn.
Hơn thế nữa, những em được học trong một môi trường tốt thường có khuynh hướng tự xem mình là thông minh và có tài, trong khi những em nhiều năm học trong những trường không tốt giảm đi lòng tự tin và sự tự trọng của mình đi rất nhiều.
Chính điều này ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp và tương lai của các em sau này. Và qua đó cũng phản ảnh rất rõ ràng sự bất công trong giáo dục của xã hội Mỹ.
Từ đứa trẻ giang hồ trở thành nhà khoa học giải Nobel
09:45-19/10/2007

Trong ba nhà khoa học được trao giải Nobel y học hay sinh lí học năm nay, có lẽ trường hợp của Mario Capecchi là đáng chú ý nhất, vì cuộc đời ông là một tấm gương sáng chói về phấn đấu để thành công trong nghịch cảnh.
Mario R. Capecchi chào đời ngày 6/10/1937 ở Verona, miền bắc nước Ý, nơi nổi tiếng với chuyện tình Romeo và Juliet. Mẹ ông là một nhà thơ và cha là một sĩ quan không quân trong quân đội Ý, nhưng hai người không bao giờ chính thức cưới nhau, vì mẹ ông là một người có khuynh hướng chống chủ nghĩa Phát-xít và chủ nghĩa Nazi, và dứt khoát không chịu thành hôn với một sĩ quan không quân trong quân đột Phát-xít dù hai người yêu nhau và có con.
Đến năm Mario chưa tròn 4 tuổi, mẹ ông bị bọn Gestapo bắt giam trong trại tập trung nổi tiếng Dachau. Biết rằng thời gian tự do của mình không còn bao nhiêu nữa, bà quyết định bán tất cả gia tài, kể cả ngôi biệt thự, cho một gia đình nông dân. Gia đình này cưu mang Mario một thời gian trong khi mẹ ông đi tù. Đến khi gia đình người nông dân khánh kiệt, Mario đành phải rời nhà, và bắt đầu một cuộc sống giang hồ. Mario lang thang hết phố này sang phố khác ở miền nam nước Ý. Hết ngày này sang tháng nọ, ban ngày thì đi ăn xin, có khi tham gia các băng đảng đi ăn trộm, ban đêm thì ngủ trên vĩa hè. Bốn năm trời lang thang hết nơi này sang nơi khác cho đến khi tấm áo bị rách nát, Mario được đưa vào một bệnh viện trong tình trạng suy dinh dưỡng trầm trọng.
Đến khi cuộc thế chiến thứ 2 kết thúc, mẹ ông sống sót sau những năm tù tội trong trại tập trung và được thả ra. Bà lang thang đi tìm Mario hết cô nhi viện này đến nhà thương khác, và sau cùng mẹ cũng gặp con trong bệnh viện, đúng vào ngày sinh nhật thư 9 của Mario! Vài tuần sau, hai mẹ con quyết định rời Ý và khăn gói lên đường sang Pennsylvania (Mĩ) định cư và đoàn tụ với cậu của Mario, lúc đó đã định cư ở Pennsylvania và thành lập một cộng đồng gồm các gia đình gốc Ý ở đó.
Đến Pennsylvania, Mario được bố trí học lớp 3. Là một đứa trẻ lớn lên từ cuộc sống giang hồ, Mario nhanh chóng trở thành trưởng lớp, chuyên “trị” những đứa học trò lưu manh trong lớp. Sau đó, Mario theo học ở Trường cao đẳng Antioch ở Yellow Spring (Ohio), một trường tư thuộc vào hạng danh giá ở miền trung tây nước Mĩ. Thoạt đầu, ông ghi danh học chính trị học, nhưng tốt nghiệp cử nhân về hóa học và vật lí vào năm 1961 (lúc đó ông đã 24 tuổi)! Sau Antioch College, ông xin nhập học Đại học Harvard, và người phỏng vấn ông (sau này là thầy hướng dẫn) là James Watson (cha đẻ của DNA, giải Nobel năm 1962). Ông kể lại trong buổi phỏng vấn, ông rụt rè hỏi Watson trường nào là nơi lí tưởng để ông theo học thạc sĩ và tiến sĩ, Watson trả lời với một giọng “giang hồ”: “Mẹ kiếp, nếu mày xin học bất cứ chỗ nào khác [ngoài Harvard] thì mày là một thằng điên” (nguyên văn: “You would be f…ing crazy to go anywhere else.”) Năm 1967, ông tốt nghiệp tiến sĩ vật lí sinh học (biophysics) từ Đại học Harvard.
Năm 1969, ông được bổ nhiệm chức danh Assistant Professor (giống như giáo sư dự khuyết); năm 1971 ông trở thành Associate Professor (phó giáo sư) tại trường Y thuộc Đại học Harvard. Ông không hài lòng với các đồng nghiệp ở Harvard, vì theo ông, họ bảo thủ, không hòa thuận với nhau, và cũng không nâng đỡ các nhà khoa học trẻ. Năm 1973, ông rời Harvard và nhận chức giáo sư (Professor) tại Đại học Utah. Lúc đó, ai cũng nói ông điên, vì Đại học Utah không có “tên tuổi” gì trên trường khoa học so với Harvard, nhưng người thầy cũ của ông là giáo sư James Watson khuyên rằng ở bất cứ nơi nào nhà khoa học vẫn có cơ hội để trở thành xuất sắc. Năm 1988 giáo sư Mario Capecchi trở thành chuyên gia nghiên cứu (investigator) cho Viện nghiên cứu y khoa Howard Hughes, một viện nghiên cứu hàng đầu trên thế giới. Quyết định rời Harvard của ông hoàn toàn đúng, vì sự nghiệp của ông “khởi sắc” từ khi về làm ở Đại học Utah và Viện nghiên cứu y khoa Howard Hughes. Cho đến nay, ông đã công bố được 150 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, phần lớn là các tập san có ảnh hưởng lớn và chất lượng cao. Giải Nobel y học năm nay là một phần thưởng đẹp nhất trong sự nghiệp khoa học, và một “happy ending” cho câu chuyện đời đầy thăng trầm của giáo sư Mario R. Capecchi. Cuộc đời và sự nghiệp của giáo sư Mario R Capecchi cũng là một minh chứng cho quan điểm rằng tài năng cần được nuôi dưỡng ở những môi trường tri thức cao và thấp. Xã hội cần phải tìm cách nâng đỡ và nuôi dưỡng những thành phần nghèo khó, những thành phần bên lề xã hội, những thành phần thiếu học và những đứa trẻ ranh.
Đến năm Mario chưa tròn 4 tuổi, mẹ ông bị bọn Gestapo bắt giam trong trại tập trung nổi tiếng Dachau. Biết rằng thời gian tự do của mình không còn bao nhiêu nữa, bà quyết định bán tất cả gia tài, kể cả ngôi biệt thự, cho một gia đình nông dân. Gia đình này cưu mang Mario một thời gian trong khi mẹ ông đi tù. Đến khi gia đình người nông dân khánh kiệt, Mario đành phải rời nhà, và bắt đầu một cuộc sống giang hồ. Mario lang thang hết phố này sang phố khác ở miền nam nước Ý. Hết ngày này sang tháng nọ, ban ngày thì đi ăn xin, có khi tham gia các băng đảng đi ăn trộm, ban đêm thì ngủ trên vĩa hè. Bốn năm trời lang thang hết nơi này sang nơi khác cho đến khi tấm áo bị rách nát, Mario được đưa vào một bệnh viện trong tình trạng suy dinh dưỡng trầm trọng.
Đến khi cuộc thế chiến thứ 2 kết thúc, mẹ ông sống sót sau những năm tù tội trong trại tập trung và được thả ra. Bà lang thang đi tìm Mario hết cô nhi viện này đến nhà thương khác, và sau cùng mẹ cũng gặp con trong bệnh viện, đúng vào ngày sinh nhật thư 9 của Mario! Vài tuần sau, hai mẹ con quyết định rời Ý và khăn gói lên đường sang Pennsylvania (Mĩ) định cư và đoàn tụ với cậu của Mario, lúc đó đã định cư ở Pennsylvania và thành lập một cộng đồng gồm các gia đình gốc Ý ở đó.
Đến Pennsylvania, Mario được bố trí học lớp 3. Là một đứa trẻ lớn lên từ cuộc sống giang hồ, Mario nhanh chóng trở thành trưởng lớp, chuyên “trị” những đứa học trò lưu manh trong lớp. Sau đó, Mario theo học ở Trường cao đẳng Antioch ở Yellow Spring (Ohio), một trường tư thuộc vào hạng danh giá ở miền trung tây nước Mĩ. Thoạt đầu, ông ghi danh học chính trị học, nhưng tốt nghiệp cử nhân về hóa học và vật lí vào năm 1961 (lúc đó ông đã 24 tuổi)! Sau Antioch College, ông xin nhập học Đại học Harvard, và người phỏng vấn ông (sau này là thầy hướng dẫn) là James Watson (cha đẻ của DNA, giải Nobel năm 1962). Ông kể lại trong buổi phỏng vấn, ông rụt rè hỏi Watson trường nào là nơi lí tưởng để ông theo học thạc sĩ và tiến sĩ, Watson trả lời với một giọng “giang hồ”: “Mẹ kiếp, nếu mày xin học bất cứ chỗ nào khác [ngoài Harvard] thì mày là một thằng điên” (nguyên văn: “You would be f…ing crazy to go anywhere else.”) Năm 1967, ông tốt nghiệp tiến sĩ vật lí sinh học (biophysics) từ Đại học Harvard.
Năm 1969, ông được bổ nhiệm chức danh Assistant Professor (giống như giáo sư dự khuyết); năm 1971 ông trở thành Associate Professor (phó giáo sư) tại trường Y thuộc Đại học Harvard. Ông không hài lòng với các đồng nghiệp ở Harvard, vì theo ông, họ bảo thủ, không hòa thuận với nhau, và cũng không nâng đỡ các nhà khoa học trẻ. Năm 1973, ông rời Harvard và nhận chức giáo sư (Professor) tại Đại học Utah. Lúc đó, ai cũng nói ông điên, vì Đại học Utah không có “tên tuổi” gì trên trường khoa học so với Harvard, nhưng người thầy cũ của ông là giáo sư James Watson khuyên rằng ở bất cứ nơi nào nhà khoa học vẫn có cơ hội để trở thành xuất sắc. Năm 1988 giáo sư Mario Capecchi trở thành chuyên gia nghiên cứu (investigator) cho Viện nghiên cứu y khoa Howard Hughes, một viện nghiên cứu hàng đầu trên thế giới. Quyết định rời Harvard của ông hoàn toàn đúng, vì sự nghiệp của ông “khởi sắc” từ khi về làm ở Đại học Utah và Viện nghiên cứu y khoa Howard Hughes. Cho đến nay, ông đã công bố được 150 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, phần lớn là các tập san có ảnh hưởng lớn và chất lượng cao. Giải Nobel y học năm nay là một phần thưởng đẹp nhất trong sự nghiệp khoa học, và một “happy ending” cho câu chuyện đời đầy thăng trầm của giáo sư Mario R. Capecchi. Cuộc đời và sự nghiệp của giáo sư Mario R Capecchi cũng là một minh chứng cho quan điểm rằng tài năng cần được nuôi dưỡng ở những môi trường tri thức cao và thấp. Xã hội cần phải tìm cách nâng đỡ và nuôi dưỡng những thành phần nghèo khó, những thành phần bên lề xã hội, những thành phần thiếu học và những đứa trẻ ranh.
Nguyễn Văn Tuấn
No comments:
Post a Comment