Ý kiến của các vị đều rất thống nhất, cho rằng, trong thời gian qua, những người nghiên cứu khoa học xã hội thường mong muốn giữ được “an toàn”, tránh bị quy chụp chính trị, đã chọn những đề tài nặng về giải thích tính đúng đắn và sự sáng suốt về quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), ít muốn đụng chạm những chủ đề nhạy cảm về chính trị. Nhiều vị đồng tình với đề nghị của giáo sư Nguyễn Đức Bình cho ra Tạp chí “Tranh Luận” lưu hành nội bộ để các nhà nghiên cứu khoa học xã hội thảo luận thẳng thắn những vấn đề đặt trước nhu cầu phát triển của đất nước. Chương trình của VTV1 còn giới thiệu bản dự thảo quy chế dân chủ trong khoa học xã hội, theo giới thiệu, đó là bản dự thảo đã được thảo luận suốt 18 năm, nay đã đến lúc đủ điều kiện chín muồi để công bố.
Trao đổi với những người xem truyền hình VTV1 đêm đó, tôi được nghe hầu hết ý kiến cho rằng, đây là một tín hiệu tốt đẹp cho giới nghiên cứu khoa học xã hội Việt Nam.
Đâu chỉ có số phận của khoa học xã hội?
Lịch sử khoa học cho thấy, những bi kịch trong mối quan hệ giữa khoa học và chính trị đâu chỉ có rơi vào số phận các nhà khoa học xã hội. Vụ án Lưxenkô ở Liên Xô diễn ra từ cuối thập niên 1930 đến đầu thập niên 1940 là một vụ án mà giới chính trị đánh vào giới khoa học tự nhiên, khi các nhà di truyền học hiện đại truyền bá thuyết Mendel - Morgan vào Liên Xô. Họ đã bị lên án là truyền bá một học thuyết duy tâm tư sản phản động. Chỉ sau vài tháng phát động phong trào phê phán di truyền học hiện đại, trên ba ngàn nhà sinh học Xô Viết bị kết án, bị khai trừ đảng, bị bỏ tù và xử bắn. Vavilov, viện trưởng Viện Di truyền học thuộc Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô bị bắt bỏ tù từ năm 1940, bị đái ra máu và chết trong tù vào năm 1942. Hiệu trưởng Đại học Kazan bị cách chức và bị khai trừ khỏi Đảng. Có thể nói, đây là một vụ tàn sát khoa học đẫm máu nhất thế kỷ 20, kéo lùi nền sinh học Xô Viết từ chỗ là đối thủ cạnh tranh đáng gờm trong các phương hướng nghiên cứu ứng dụng di truyền học hiện đại vào nông nghiệp, y học, quân sự,... đến chỗ tụt hậu hàng nửa thế kỷ so với các cường quốc sinh học(1).
Một chủ đề không mới
Thật ra, mối quan hệ giữa khoa học và chính trị không phải là một chủ đề mới. Lịch sử đã chứng kiến các vua chúa đốt sách và thực hiện chính sách ngu dân. Napoleon là một người có công lao to lớn với nền khoa học Pháp, ông đã dành nhiều ưu đãi cho các nhà toán học, thiên văn học, hóa học và những ngành khoa học ứng dụng. Trong cuộc chinh phạt Ai Cập, ông đã mang theo một đoàn quân bác học đi giữa vành đai bảo vệ của các chiến binh, để lập ở đó một viện khoa học, nhưng cũng chính Napoleon đã tỏ thái độ kỳ thị với hàng loạt ngành khoa học xã hội, như lịch sử, triết học, đặc biệt là trường phái triết học của Thế kỷ Ánh sáng. Napoleon chống Kant một cách đặc biệt gay gắt, gọi Kant là một “tên bịp bợm”. Rồi đến kinh tế học chính trị cũng chịu chung số phận, nhất là trường phái kinh tế học chính trị theo chủ nghĩa trọng nông(2).
Hàng loạt nhà khoa học xã hội trong các nước xã hội chủ nghĩa đã bị xử lý cầm tù không xét xử vì đã đưa những quan điểm trái ngược với quan điểm chính thống, như quan điểm về kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền, hòa giải và hòa hợp dân tộc thay vì chủ nghĩa quốc tế.
Ngược lại cũng có tình huống khác. Đó là nhà chính trị đã trọng dụng nhà khoa học vì sự nghiệp cách mạng của mình, và một số nhà khoa học đã tự nguyện phục vụ mục tiêu xã hội của nhà chính trị. Trường hợp những nhà khoa học và kỹ thuật tên tuổi như Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Tường, Ngụy Như Kon Tum, v.v… cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chính vì sự gặp nhau của những ý tưởng cao cả này.
Nhưng dần dần xuất hiện những tình thế khác. Đó là trong sự hợp tác giữa nhà chính trị và nhà khoa học vì lợi ích chung của toàn xã hội, dần dần len lỏi những động cơ vụ lợi và mối quan hệ hai chiều này sẽ nghiêng dần về một nhóm quyền lực chính trị. Với thế mạnh của mình, họ thu hút một số nhà khoa học làm công cụ phục vụ cho lợi ích riêng, và đương nhiên, một số nhà khoa học không còn giữ được tư cách, trở thành kẻ cơ hội, trở thành những “nàng hầu” của nhóm quyền lực chính trị. Số khác thì tìm cách lánh xa chính trị, gọi là để tránh tiếng cơ hội chính trị, nhưng nếu không xử lý đúng đắn quan hệ này dễ trở thành kẻ đối lập với quyền lực chính trị và mang vạ vào thân. Giữa cái mớ bong bong ấy, sự xuất hiện những kẻ cơ hội, khi gặp giới khoa học thì nói chính trị, khi đi với giới chính trị thì nói khoa học là khó tránh khỏi, và đó thực sự là những quái thai của một nền khoa học và chính trị bệnh hoạn.
Triết học marxist nói gì về quan hệ giữa khoa học và chính trị?
Triết học marxist xem khoa học cũng như tôn giáo và ý thức hệ chính trị là những hình thái ý thức xã hội. Cũng theo quan điểm triết học marxist, mỗi hình thái ý thức xã hội có một chức năng xã hội riêng biệt, và có những hình thức biểu hiện riêng biệt. Hơn nữa các hình thái ý thức xã hội thì tương tác, nhưng không lệ thuộc lẫn nhau(4). Có nghĩa, khoa học không có chức năng minh họa và giải thích cho các hình thái ý thức xã hội khác. Đây là điều mà nhiều người nhầm lẫn, kể cả trong giới chính trị và trong tôn giáo. Chẳng hạn, Giáo hội đã phẫn nộ và mang xử án Galileo khi ông tuyên bố ủng hộ thuyết nhật tâm, trái với tín điều trong kinh thánh. Nhưng Giáo hội đã đủ tỉnh táo nhận ra sai lầm của mình: hơn ba trăm năm sau Giáo hoàng John Paul Đệ Nhị đã lập một ủy ban xem xét lại vụ án và đến năm 1992 đã tuyên bố minh oan cho Galileo. Tương tự việc làm của Giáo hội, mười năm sau khi Stalin chết, vào giữa thập niên 1960, Nhà nước Liên Xô cũng đã xem xét lại vụ án Lưxenko và phục hồi danh dự cho Vavilov và các nhà sinh học bị xử trí trong vụ án này.
Vấn đề là nhiều người đã không hiểu mối quan hệ giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác, như đã được chỉ ra rất rõ trong những luận điểm rất quan trọng của triết học marxist. Họ nghĩ một cách chân thành rằng khoa học phải phục vụ chính trị, phải chạy theo để giải thích tính đúng đắn của đường lối chính trị, cũng như tôn giáo, đòi khoa học phải nói theo kinh thánh. Trong xu thế ấy, người ta phê phán và lên án những kẻ nói ngược là thiếu “lập trường quan điểm”, là bấp bênh dao động là lẽ đương nhiên.
Không phải ngẫu nhiên, sau sự biến Hungary năm 1956 là những cuộc đàn áp các nhà khoa học. Nhận thức được tính chất sai lầm của những vụ án kiểu vụ án sinh học Xô Viết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Hungary đã ra nghị quyết về khoa học, trong đó có một quan điểm được ghi nhận: “Cần có biện pháp bảo vệ các nhà nghiên cứu khoa học xã hội khỏi những nguy cơ về chính trị”.
Thay lời kết luận
Tôi nhớ, khi đến dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, tôi được tặng một quyển sổ, trang đầu tiên ghi mấy dòng như lời đề tựa: “Khoa học xã hội phải có nhiệm vụ giải thích cho đường lối chính trị…” Hèn nào, trong buổi truyền hình đêm 6 tháng 10 vừa qua, các vị giáo sư khả kính của chúng ta bộc bạch ý nghĩ của mình… Nghiên cứu giải thích “đường lối quan điểm” là an toàn nhất (!)
Tôi thật ấn tượng nhớ lại, khi mới nhậm chức Tổng bí thư của Đảng CSVN, ông Đỗ Mười có cuộc gặp gỡ các nhà khoa học tại Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam. Phát biểu trong buổi đó, ông đã nhắc đi nhắc lại hai ý: “Khoa học phải phản biện cho đường lối chính trị của Đảng” và “Khoa học phải xây dựng luận cứ cho đường lối chính trị của Đảng”. Có lẽ đây là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng CSVN đưa ra một quan điểm hết sức chuẩn xác về mối quan hệ giữa khoa học với chính trị.
Vũ Cao Đàm
(1)Theo số liệu công bố trong Tạp chí Tia lửa nhỏ (Ogoniok) Số 8&9 năm 1986 (nguyên bản tiếng Nga)
(2) Takle E. (1999), Napoleon Bonapart (Bản tiếng Việt), Nxb Quân đội Nhân dân, pp. 181-183
(3) Bernal J. (1939), The Social Function of Science, Ed. Roudlege, p.402.
(4) Xem: Từ điển Triết học (1977), Nxb Tiến bộ, Moskva (Bản tiếng Việt)
Không chỉ khoa học xã hội, cả khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật cũng chịu những ảnh hưởng tương tự, dù có ở mức độ ít hơn. Ông Đàm cũng nhắc tới chủ nghĩa Lysenko trong khoa học (mà ông gọi là vụ án Lưxenkô), một ví dụ điển hình của việc khoa học phục vụ chính trị, và đã kéo lùi ngành sinh học của Liên Xô chậm đi ít nhất là nửa thế kỷ. Nếu ai từng đọc sách giáo khoa thời trước cải cách giáo dục hồi những năm 80 có thể sẽ nhớ được tên Lysenko. Khóa tôi có lẽ là khóa đầu tiên học sinh học Mendel trong nhà trường phổ thông.
Và bây giờ, cái "dân chủ" nhất có thể được phép mà Đảng (với đại diện là GS. Nguyễn Đức Bình, nhà lý luận chủ chốt của ĐCS Việt Nam) cho phép là gì: Là việc ra đời một tạp chí có tên "Tranh Luận" lưu hành nội bộ (!) "để các nhà nghiên cứu khoa học xã hội thảo luận thẳng thắn những vấn đề đặt trước nhu cầu phát triển của đất nước."
Một tờ tạp chí "lưu hành nội bộ"? Tức là sự "thảo luận thẳng thắn" của các vị chỉ được coi như là trí thức hiến kế "nội bộ" cho Đảng. Đấy là trường hợp tốt nhất, nhưng tôi ngờ rằng đó chỉ là cái van Đảng mở ra để các vị trí thức xả bớt khí tức đi, kiểu như giờ không viết trên Tia Sáng hay Talawas nữa mà chuyển sang viết cho tạp chí Tranh Luận của giáo sư Bình chẳng hạn. Còn trường hợp xấu nhất, có thể nó còn là một "cái bẫy chuột", một cái sàng để sàng bớt những "anh trí thức" nào cứng đầu, thích "thảo luận thẳng thắn" những vấn đề của đất nước. Trong lịch sử Đảng ta và các đảng anh em, không thiếu gì những bẫy chuột như thế, từ Trăm hoa đua nở bên Bạn, tới Nhân văn Giai phẩm bên ta, hay gần đây là Góp ý cho Đại hội X.
LINH’s Blog
10 điều nói thật: Ứng xử khoa học với nhà khoa học
Sau loạt bài "Mổ xẻ sự yếu kém của khoa học Việt Nam", GS-TSKH Lê Huy Bá, ĐH Công nghiệp TP.HCM nêu 10 ý kiến đề xuất nhằm góp phần xây dựng nền khoa học nước nhà, đặc biệt là thái độ ứng xử với nhà khoa học.
Theo tôi, những nhà khoa học chân chính, họ sống rất đơn giản, và nguyện vọng của họ cũng rất giản đơn.
1. Các quyền tự chủ trong nghiên cứu khoa học.
Sức sáng tạo và bản quyền chất xám, kết quả làm việc của các đề tài, mặc dù đã có Nghị định 44, hay 115 Liên Bộ… nhưng giá trị thực thi vẫn còn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Thông tư Liên Bộ là “nới rộng” cho quyền tự chủ của các nhà khoa học, nhưng về các tỉnh, thành, tùy theo điều kiện mà người ta lại cắt xén, thường chỉ còn 65-70% mà thôi!... Nhà nghiên cứu đến nay vẫn chịu o ép nhiều bề, vẫn phải tuân theo cơ chế “xin, cho”, vẫn phải giải trình hàng đống câu chất vấn của tài vụ, của Sở Kế hoạch Tài chính và phải đủ đức kiên nhẫn để vượt qua những rào cản mà ở nước mình mới có, nước tiên tiến thì không!
Các nhà khoa học đầu ngành, lại đều đã ở tuổi 60 cả, họ rất ngại ngần khi phải dự những buổi “bảo vệ tài chính” hay “giải trình kinh phí” mà chính họ là người phải trả giá từng món thấp cao ở chợ vậy. Sở KH & CN thì nay đã thoáng nhiều rồi nhưng Sở Tài chính thì vẫn gây trở ngại và chậm trễ.
Trong thực tế, chúng ta đã và đang thấy, những đề án có giá trị khoa học cao nhưng không thực hiện nổi vì không thấy ai, không có một đơn vị nào sẵn lòng tài trợ cho họ nghiên cứu cả. Kết quả là, nhiều ý tưởng vàng đành phải chết lụi theo năm tháng.
Nếu ai đó có đề tài phải đăng ký qua một quy trình lâu lắm, nhiêu kê lắm. Điều này giải thích tại sao, trí thức Việt Nam rất thông minh, rất giỏi, nhưng trình độ công nghệ của ta vẫn thấp, sản phẩm của ta vẫn chưa cao. Nhiều trường hợp khi học và làm việc ở nước ngoài rất thành đạt, có nhiều phát minh sáng chế nhưng khi về Việt Nam lại khó có phát minh nào cả!
2. Điều kiện và phương tiện làm việc tối thiểu cho các nhà khoa học còn rất thiếu, thậm chí không có
Nhà khoa học, kể cả được gửi đào tạo ở nước ngoài hay Việt kiều, họ đều mong muốn khi về nước, phải có đủ phương tiện, phòng thí nghiệm tối thiểu để làm việc, để khởi đầu hay thực thi ý tưởng khoa học mà họ nung nấu bấy lâu nay. Họ biết hoàn cảnh nước ta còn nghèo, lấy tiền đâu mà đòi hỏi cao! Nhưng vấn đề nơi làm việc và điều kiện làm việc là quan trọng nhất.
Một số trường hợp khi về nước, về một cơ quan, sau một thời gian, không đủ điều kiện làm việc, đành rũ áo ra đi. Thậm chí, có trường hợp, giáo sư mà không có nổi một cái bàn làm việc và máy tính cho riêng mình, trong suốt nhiều năm. Điều này thật sự đáng lo ngại.
Trong lúc đó, có một vài người lại nghĩ rằng, các nhà khoa học phải được bổ nhiệm chức này, chức nọ. Suy nghĩ này là không chính xác. Người trí thức chân chính họ không đòi hỏi chức tước đâu! Mà cái quan trọng nhất là họ có đủ điều kiện tối thiểu để làm việc hay không, và được yên ổn để làm việc hay lại bị lôi kéo vào vòng tranh chấp, phe phái, đấu đá, mất thời gian, vô bổ… Nhưng lại có một nghịch lý, ở nước ta, tình trạng hiện nay, có chức mới có quyền để đăng ký, để dễ duyệt kinh phí nghiên cứu, có lương cao (hệ số chức vụ) có quyền điều nhân lực, có xe đi lại.
Điều này dễ dẫn đến hiện tượng: một số trí thức chỉ mong và thậm chí lập mưu kế để lấy được chức, mà quên làm nhiệm vụ chuyên môn, sinh ra đấu đá nhau. Bên cạnh đó, các chế độ cho trí thức chưa có, hoặc có mà chưa rõ ràng.
![]() |
Nghiên cứu sinh học ở phòng thí nghiệm công nghệ gen. (Ảnh: Q. Hạnh) |
3. "Văn minh cơ quan và hành vi ứng xử" với nhà khoa học
Nhiều người đặt câu hỏi: Có thật sự, lãnh đạo đã tôn trọng họ? Nhiều cơ quan, trả lương cao, nhưng nhà khoa học đầu ngành vẫn bỏ đi, chỉ vì hành vi ứng xử của lãnh đạo trong cơ quan chưa thấu tình đạt lý. Có một số lãnh đạo xem nhà khoa học như một cái bức tranh treo tường trong phòng làm việc của họ hay vật liệu đánh bóng cơ quan mà thôi. Họ cũng tổ chức “Hội đồng tư vấn khoa học” nhưng trên thực tế không hoạt động! Những trí thức thường có điểm yếu là dễ tự ái. Nếu họ cảm thấy không được tôn trọng họ sẽ bỏ đi.
4. Nhà khoa học cần được trả lương đúng, như mọi lao động
Trả lương đúng không phải là trả cao, mà phải tương xứng với mức độ chất xám bỏ ra, theo bằng cấp của họ. Trong lúc đó, ta lại chưa có bậc lương khởi điểm cho các bậc trí thức khác nhau về học vị và chức danh khoa học. (Giữa kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ, hay PGS, GS chưa có sự khác nhau rõ ràng).
Mặt khác, hiện nay, đồng lương quá lỗi thời, làm cho một số trí thức có chuyên môn cao bỏ Nhà nước, sang làm cho công ty nước ngoài hay đi nước ngoài làm việc. Đó là hiện tượng “chảy máu chất xám” đáng tiếc
5. Giải quyết vấn đề nhà khoa học đầu ngành, cao tuổi
Vấn đề đáng bàn ở đây là những nhà khoa học đầu ngành nắm cương vị lãnh đạo cơ quan, ở cái tuổi 60, nghỉ lãnh đạo là đồng nghĩa với tuổi nghỉ hưu luôn. Nếu họ ở lại làm việc cũng có cái khó cho họ và khó cả cho ê kip mới lên thay; mặc dù bề ngoài thì vẫn vui vẻ, nhưng bên trong, cả 2 phía đều thấy có cái gì đó không ổn. Mà nếu để cho những nhà khoa học đầu đàn này nghỉ hẳn hay kiếm cơ quan khác không đúng chuyên môn, ấy là một thiệt hại lớn cho nước nhà. Vì những nhà khoa học chân chính, họ lấy việc cống hiến trọn đời như một lẽ sống, một niềm vui. Vậy ta phải xử lý sao đây để họ cống hiến nhiều nhất, cho thấu tình đạt lý nhất?
6. Trí thức muốn có sự đối xử công bằng xã hội
Trí thức của ta có nhiều nguồn đào tạo: từ trong nước, từ các nước xã hội chủ nghĩa cũ, từ các nước phương tây về hay từ miền Bắc vào Nam. Tất nhiên sẽ không có một sự công bằng nào là tuyệt đối cả, nhưng các trí thức muốn có một công bằng xã hội tương đối giữa họ. Dẫu có đói khổ mà được đối xử công bằng vẫn tạo cho họ niềm tin, niềm vui.
![]() |
Cần định hướng và tạo cho trí thức trẻ một lý tưởng khoa học... Trong ảnh: Nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Tế bào gốc, ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM. (Ảnh: VNN) |
7. Vấn đề tư vấn, phản biện khoa học
Phần đông các nhà khoa học luôn có nhiệt tình, đưa hết những hiểu biết của mình góp ý, tư vấn phản biện. Dẫu đôi lúc có những phản biện gay gắt, khó lọt tai nhưng đó là phản biện xây dựng. Ấy vậy mà sự tiếp thu của lãnh đạo còn hình thức, chiếu lệ. Thậm chí, có lãnh đạo chỉ nghe theo “thầy dùi” chứ ít nghe các góp ý thẳng thắn, chân thành.
Hơn thế, vây quanh các nhà lãnh đạo là những trợ lý mà năng lực chuyên môn có hạn, thậm chí còn non kém. Vì thế mà các góp ý phản biện không mấy được trân trọng và tiếp thu. Những nhà phản biện thẳng thắn chưa được tạo điều kiện tiếp cận nguồn thông tin, dữ liệu, thường ít có cơ hội gặp trực tiếp lãnh đạo. Họ ít được mời phản biện lần thứ 2, vì lần thứ nhất đã nói thẳng quá, làm phật lòng! Vì vậy, khi giao trách nhiệm phản biện, ta phải thật sự bỏ qua định kiến cá nhân, phải mời chuyên gia giỏi, dám nói thẳng, nói thật.
8. Không "chụp mũ" khi tranh luận khoa học
Giữa các nhà khoa học trong Đảng và ngoài Đảng, đôi lúc cũng nổ ra tranh luận học thuật. Vì hiếu thắng, người trong Đảng (thường là có vị trí lãnh đạo), đã “chụp” cho người ngoài Đảng những cái “mũ”: Không trung thành, sai quan điểm, mất lập trường… để đến nỗi người trí thức ngoài Đảng phát sợ, phải tự nguyện ra đi. Trường hợp này không nhiều nhưng cũng nên lưu ý, không nên gây tổn thương lòng tự trọng.
9. Định hướng và tạo cho trí thức trẻ một lý tưởng khoa học
Ta đã, đang và sẽ có một đội ngụ trí thức trẻ đông đảo, giỏi ngoại ngữ, tiếp cận nhanh với thế giới thông qua tin học, internet. Nhưng, theo tôi, cái xu hướng thực dụng đang lấn át lý tưởng khoa học.
Ta chưa có một đội ngũ trí thức trẻ dám có ý tưởng lớn, xây dựng trường phái khoa học, chưa thực sự dám xông vào những gai góc, gay cấn của khoa học. Số đông nặng về tìm kiếm “mẹo” kỹ thuật để kiếm nhiều tiền hơn là một hoài bão, đề án khoa học, một giải Nobel. Thậm chí nhiều trí thức trẻ xem học lấy một cái bằng giống như tìm “một cái cần câu cơm” vậy! Phải làm sao đây để trí thức trẻ có hoài bão lớn, lý tưởng cao đẹp, đóng góp thật nhiều cho xã hội?
10. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các nhà khoa học
Nhà nước cần có những động tác liên kết các nhà khoa học, tăng tính hợp đồng, sẻ chia hơn nữa để tổng hợp sức mạnh của lực lượng khoa học…
- GS-TSKH Lê Huy Bá
No comments:
Post a Comment