Bài viết sau đây, được biên dịch trực tiếp từ Trung văn, có thể được coi là sự thể hiện cô đọng của ý thức dân tộc chủ nghĩa đó. Với nhan đề “Thế giới thập đại uy hiếp Trung Quốc đích quốc gia” (世界十大威胁中国的国家) hoặc “Đối Trung Quốc tối cụ uy hiếp đích thập đại quốc gia” (对中国最具威胁的十大国家) ở nguyên bản, bài viết không đề tên tác giả nhưng đang được phổ biến công khai trên nhiều trang liên mạng tiếng Hoa, trong đó có những địa chỉ có lưu lượng truy cập cao như các mạng Bách-độ, Thiết-huyết, thậm chí nó được cả những site chuyên đề về giáo dục như Trung-quốc Xã-khu Giáo-dục đăng tải. Độc giả có thể tìm thấy trong bài viết này những từ ngữ, nội dung gây hấn và những xuyên tạc, dối trá về lịch sử, minh hoạ một cách xác thực cho nhận định của văn hào Anh George Orwell: “Chủ nghĩa dân tộc là sự khao khát quyền lực được tôi cứng bởi sự tự lừa dối.”
Chỉ số đe doạ: 7. Chỉ số thực lực: 4. Chỉ số tổng hợp: 5,5.
Lý do: Người Mỹ giải phóng Philippines. Hiện nay Philippines là bạn đồng minh trung thành nhất của Mỹ ở Đông Nam Á. Đồng thời Philippines chưa bao giời từ bỏ khát vọng đối với biển Nam Trung Quốc (tức biển Đông – người dịch), xưa nay chưa bao giờ ngừng xâm chiếm quần đảo Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa – người dịch). Những viên đạn của binh lính Philippines đang xuyên thủng lồng ngực ngư dân Trung Quốc, quốc kỳ Philippines đang tung bay trên lãnh thổ Trung Quốc. Philippines là một quốc gia mà Trung Quốc quyết không được coi thường.
Quốc gia số 9: Indonesia
Chỉ số đe doạ: 7. Chỉ số thực lực: 5. Chỉ số tổng hợp: 6.
Lý do: Mỗi khi nghĩ tới cuộc bạo động chống lại người Hoa tại Indonesia, mỗi khi nghĩ đến cảnh người Indonesia cướp phá cửa hàng của người Hoa, cưỡng hiếp phụ nữ người Hoa, tàn sát đồng bào người Hoa thì cơn giận lại không thể kìm được. Indonesia là quốc gia đông dân nhất, diện tích lớn nhất Đông Nam Á, đất nước mà tuyệt đại đa số người dân không có thiện cảm với người Hoa, đất nước còn chưa hoàn toàn khai hoá này là một đe doạ lớn đối với Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á.
Quốc gia số 8: Australia
Chỉ số đe doạ: 7. Chỉ số thực lực: 6. Chỉ số tổng hợp: 6,5.
Lý do: Australia, đại bản doanh phía Nam của liên minh quân sự Mỹ - châu Á Thái Bình dương. Australia là lô cốt đầu cầu phía Nam kiềm chế Trung Quốc, cùng Nhật Bản nhìn [Trung Quốc] từ hai phía Nam, Bắc. Với tư cách là đồng minh trung thành của Mỹ, với tư cách là một quốc gia có cùng quan niệm giá trị và thế giới quan với Mỹ, sự tồn tại của Australia là một chướng ngại vật cho sự phát triển của Trung Quốc ra vùng châu Á - Thái Bình dương. Mấy năm gần đây Mỹ càng ngày càng phóng tay để cho Australia can thiệp vào công việc của châu Á - Thái Bình dương, sự kiện Đông Timor là một ví dụ.
Quốc gia số 7: Việt Nam
Chỉ số đe doạ: 8. Chỉ số thực lực: 5. Chỉ số tổng hợp: 6,5.
Lý do: Đây là quốc gia mới thoát khỏi Trung Quốc hơn một ngàn năm trước, đây là quốc gia hơn một trăm năm trước còn là phiên thuộc của Trung Quốc, đây là quốc gia nhận được viện trợ to lớn của Trung Quốc, đây là quốc gia hết lần này đến lần khác chĩa nòng súng nhằm vào Trung Quốc. Đó là Việt Nam. Nó dùng súng của Trung Quốc cho nó để bắn người Trung Quốc, nó mặc quần áo của Trung Quốc cho nó để đánh người Trung Quốc. Đó là Việt Nam. Cho đến nay Việt Nam chiếm đóng trên một nửa quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa). Cho đến nay, [tình hình] vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn tồi tệ bẩn thỉu. Cho đến nay biên giới trên bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa an toàn. Hiện nay, người Việt Nam đang điên cuồng kiếm tiền của người Trung Quốc, nghĩ ra các loại biện pháp để kiếm tiền của người Trung Quốc. Người Trung Quốc liệu có giẫm lại vết xe?
Quốc gia số 6: Hàn Quốc
Chỉ số đe doạ: 7. Chỉ số thực lực: 7. Chỉ số tổng hợp: 7.
Lý do: Hàn quốc là quốc gia mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc hơn mười năm, nhưng những đột kích của nó đối với Trung Quốc ở đâu cũng thấy, về kinh tế, về văn hoá, về các mặt. Nó đã từng bị Trung Quốc chiếm lĩnh, đã từng thần phục Trung Quốc, đã từng hữu hảo với Trung Quốc và cũng đã từng xảy ra chiến tranh với Trung Quốc. Rất may là bán đảo này hiện nay vẫn còn đối địch, rất may là hiện nay thực lực của nó còn chưa đủ để chống lại Trung Quốc. Thế nhưng với tư cách là một đối tác nhỏ của Mỹ, rốt cuộc nó có rắp tâm gì với Trung Quốc? Thế nhưng, nếu bán đảo này thống nhất thì sẽ tạo nên ảnh hưởng đối với Trung Quốc như thế nào? Những đột kích của Hàn Quốc đối với Trung Quốc [bấy nay] đang hàm ý nghĩa gì?
Quốc gia số 5: Ấn Độ
Chỉ số đe doạ: 9. Chỉ số thực lực: 7. Chỉ số tổng hợp: 8.
Lý do: Hoá ra Ấn Độ còn có một biệt hiệu gọi là “anh ba đầu đỏ”, nhưng có lẽ nên đổi chữ “đỏ” thành chữ “lợn”, nên gọi Ấn Độ là “anh ba đầu lợn”. Cái dân tộc mù quáng mà lại tự đại này đúng là có chút mùi lợn ba đầu. Thế nhưng mấy năm nay, bước đi quân sự của Ấn Độ lớn hơn phát triển kinh tế nhiều. Sau khi có vũ khí hạt nhân, dã tâm của Ấn Độ càng hừng hực. Ảo tưởng của nó đối với Tây Tạng vẫn đang tiếp tục. Nó vẫn còn chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Nó còn muốn đưa quân vào biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông). Nó còn muốn chiếm lãnh hải của Trung Quốc. Một Ấn Độ tràn đầy dã tâm, một quốc gia có vũ khí hạt nhân. Trung Quốc nên đối phó như thế nào?
Quốc gia số 4: Mỹ
Chỉ số đe doạ: 7. Chỉ số thực lực: 10. Chỉ số tổng hợp: 8,5.
Lý do: Một nước là nước lớn siêu cấp trên thế giới, một nước là nước lớn đang trỗi dậy; một nước là anh cả của chủ nghĩa tư bản, một nước là đầu rồng của chủ nghĩa xã hội; một nước vẫn muốn xưng bá thế giới, một nước muốn khôi phục niềm vinh quang ngày xưa: Mỹ vs (= đấu với) Trung Quốc. Nước Mỹ có chế độ dân chủ xã hội hoàn bị nhất trên thế giới, có lực lượng quân sự lớn mạnh nhất trên thế giới, có nền kinh tế phồn vinh nhất trên thế giới: nước Mỹ là bá chủ thế giới. Đảo Đài Loan là mâu thuẫn lớn nhất bầy ra giữa hai nước Trung - Mỹ; kinh tế là chỗ lôi kéo lợi ích hai nước Trung - Mỹ. Vừa kéo vừa đánh đó là chính sách nhất quán của Mỹ đối với Trung Quốc; tiếp xúc + kiềm chế, đó là bùa phép của Mỹ từ xưa đến nay đối với Trung Quốc. Đối mặt với bá chủ Trái Đất, Trung Quốc lựa chọn như thế nào?
Quốc gia số 3: Nga
Chỉ số đe doạ: 10. Chỉ số thực lực: 8. Chỉ số tổng hợp: 9.
Lý do: Trung Quốc vốn là nước lớn nhất trên thế giới. Nhưng một quốc gia khác đã cướp đoạt một cách vô liêm sỉ của Trung Quốc một vùng lãnh thổ lớn. Quốc gia đó là Nga. Nga, quốc gia rất khó khăn về kinh tế, nhưng là quốc gia có kho vũ khí khổng lồ chẳng ai dám coi thường. Nga, quốc gia tuy gần mà xa với Trung Quốc. Việc nó lôi lôi kéo kéo với Mỹ, Âu cho thấy rõ nó muốn tìm được lợi điểm lớn nhất giữa các mặt. Nga là một quốc gia đáng sợ. Nó sẽ trỗi dậy hay chìm xuống trong tương lai? Lại nữa trên đường biên giới dài dằng dặc, rốt cuộc Trung - Nga còn tồn tại bao nhiêu tranh chấp?
Quốc gia số 2: Nhật Bản
Chỉ số đe doạ: 10. Chỉ số thực lực: 9. Chỉ số tổng hợp: 9,5.
Lý do: Đó là hai dân tộc ân ân oán oán tranh chấp nhau, đó là hai dân tộc cùng coi thường nhau, đó là hai quốc gia đồng văn đồng chủng, đó là hai quốc gia thù ghét lẫn nhau: Trung Quốc và Nhật Bản. Thực lực kinh tế của Nhật Bản vô cùng lớn mạnh, thực lực quân sự của Nhật Bản càng không thể xem thường. Nhật Bản có thực lực tuyệt đối để làm ra vũ khí hạt nhân trong thời gian ngắn! Ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, một lần bí mật hạt nhân của Mỹ bị mất trộm, người đương thời đều ngờ là Liên Xô làm, đâu có ngờ lại là Nhật Bản, là Nhật Bản làm dù không dám nói một tiếng không với Mỹ. Rốt cuộc Nhật Bản có vũ khí hạt nhân hay không? Đó vẫn là một câu hỏi.
Liệu kinh tế có trở thành sợi dây hoà bình giữa Trung - Nhật hay không, mối thù hận dân tộc sẽ giải quyết như thế nào? Cùng với sự chuyển biến từ cường quốc kinh tế sang cường quốc chính trị của Nhật Bản, giữa Trung - Nhật sẽ như thế nào?
Mấy ngàn năm nay, người Nhật Bản trước sau đều thèm thuồng như hổ đói, ảo tưởng như con sói ác kêu gào phải tiêu diệt Trung Quốc, chiếm lĩnh Trung Quốc, dời đô sang Bắc Kinh, chinh phục châu Á, chiếm lĩnh châu Á, thực hiện giấc mộng đẹp kê vàng [1] “khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á” của bọn họ.
Quốc gia số 1: Trung Quốc
Ngoài những quốc gia vô liêm sỉ kể trên, Trung Quốc là quốc gia số Một trong Top 10 quốc gia kẻ thù của Trung Quốc!
Chỉ số đe doạ: 10. Chỉ số thực lực: 10. Chỉ số tổng hợp: 10.
Lý do: Trong hai cuộc Chiến tranh Nha phiến [2] , Trung Quốc rốt cuộc đã bị đánh bại là do ai vậy? Do người Anh, hay do chính chúng ta? Trong cuộc Chiến tranh [năm] Giáp Ngọ [3] , Trung Quốc cuối cùng đã thua là do ai vậy? Do người Nhật Bản, hay do chính chúng ta? Trong cuộc Chiến tranh Kháng Nhật [4] , Nhật Bản vì sao đã có thể chiếm lĩnh được già nửa [lãnh thổ] Trung Quốc? Phải chăng nguyên nhân là ở chính chúng ta? Kì thực, việc Trung Quốc từng phải đối đầu với những kẻ thù lớn nhất là do chính chúng ta! Bên trong cái phồn vinh hiện nay rốt cuộc còn tàng ẩn bao nhiêu [điều đáng] lo ngại? Các phần tử đòi độc lập cho Tân Cương thường xuyên động loạn. Đạt Lai Lạt Ma du thuyết khắp nơi. Lại nữa, bên cái eo biển Đài Loan còn rộng hơn dải Ngân Hà kia, các phần tử đòi độc lập cho Đài Loan – do “Lý Giáo phụ” và “Trần Tổng thống” [5] nuôi dưỡng và gây dựng – đang luôn luôn sẵn sàng cùng đại lục đưa đến một tấn kịch huynh đệ tương tàn. Ngoài ra, trong xã hội [thì đầy rẫy] tha hoá cùng cực, tham ô hủ bại, băng đảng tội phạm, sản xuất và tiêu thụ hàng giả, mua bán dâm, cờ bạc ma tuý, công nhân thất nghiệp, các vấn đề kinh tế, v.v... Tiền đồ Trung Quốc đang ở đâu? Trừ khi [chúng ta] phải an nội (= bình định nội bộ) trước! “Quí tôn chi ưu, tiêu tường chi hoạ.” [6] Lịch sử đã chứng minh, cái duy nhất có thể đánh bại chúng ta chỉ là chính chúng ta mà thôi!
Kẻ thù số Một trong Top “thập đại địch nhân” của Trung Quốc chính là Trung Quốc vậy!
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
[1]Mộng đẹp kê vàng: nguyên văn “hoàng lương mỹ mộng” [黄粱美梦], giấc mơ đẹp chỉ kéo dài không quá thời gian để nấu một nồi kê. Ý nói một ảo tưởng không thể thực hiện. (Các chú thích là của talawas.)
[2]Hai cuộc Chiến tranh Nha phiến (chữ Hán giản thể: 鸦片战争; pinyin: Yāpiàn Zhànzhēng) giữa Trung Quốc (dưới triều Mãn Thanh) và Vương quốc Anh, diễn ra vào những năm 1839–1842 và 1856–1860, là đỉnh điểm của cuộc tranh cãi thương mại giữa hai đế quốc: những nỗ lực của triều đình nhà Thanh trong việc áp dụng các luật lệ nhằm hạn chế sự buôn lậu thuốc phiện từ Ấn Độ (khi đó thuộc Anh) vào Trung Quốc đã kết thúc bằng xung đột vũ trang. Thanh triều đã thất bại trong cả hai lần xung đột và đã buộc phải chấp nhận để các lái buôn người Anh tự do kinh doanh thuốc phiện. Triều đình Mãn Thanh còn bị phía Anh ép phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng – Hiệp ước Nam Kinh và Hiệp ước Thiên Tân –, qui định việc mở cửa các hải cảng của Trung Quốc cho hoạt động mậu dịch, trao Hương Cảng (Hong Kong) cho phía Anh làm tô giới, v.v... Nhiều người Trung Quốc đã cảm thấy nhục nhã trước những nhượng bộ của triều đình nhà Thanh, và đây được xem là nguyên nhân quan trọng đã khiến nổ ra những cuộc khởi nghĩa như Thái Bình Thiên Quốc (1850–1864), Nghĩa Hoà Đoàn (1899–1901), góp phần dẫn đến sự sụp đổ của nhà Thanh vào năm 1912.
[3]Chiến tranh [Trung-Nhật năm] Giáp Ngọ (chữ Hán giản thể: 中日甲午战争; pinyin: ZhōngRì Jiǎwǔ Zhànzhēng), phía Nhật Bản gọi là Chiến tranh Nhật-Thanh (chữ Nhật: 日清戦争; Romaji: Nisshin Sensō), còn gọi là Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ Nhất (1.8.1894 – 17.4.1895): cuộc chiến tranh giữa triều đình Mãn Thanh Trung Quốc và Nhật hoàng Minh Trị (Meiji) nhằm giành quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên. Sự thất bại của nhà Thanh trong cuộc xung đột này là chỉ dấu về sự thoái hoá và suy yếu của chính quyền Mãn Thanh, đồng thời chỉ ra sự thành công của công cuộc hiện đại hoá Nhật Bản do cuộc Duy tân Minh Trị đem lại – trong sự so sánh với trào lưu tự cường ở Trung Quốc cùng thời. Kết cục của cuộc Chiến tranh Giáp Ngọ đã biểu thị sự dịch chuyển trung tâm quyền lực ở châu Á từ Trung Quốc sang Nhật Bản, đồng thời là một đòn chí tử giáng vào ý thức hệ cổ truyền của người Trung Quốc. Những đổ vỡ về xã hội ở Trung Quốc từ sau cuộc chiến tranh này đã dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), trực tiếp làm sụp đổ nhà Thanh (1912).
[4]Chiến tranh Kháng Nhật (chữ Hán giản thể: 抗日战争; pinyin: KàngRì Zhànzhēng), được giới sử gia trung lập gọi là cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ Hai (7.7.1937 – 9.9.1945): cuộc chiến tranh giữa Trung-hoa Dân-quốc và Đế quốc Nhật Bản trong bối cảnh Đại chiến Thế giới II, mặc dù thời điểm bắt đầu Thế chiến II thường được giới sử học tính từ khi nước Đức Quốc-xã nổ súng tấn công Ba Lan ở châu Âu (1.9.1939). Đây cũng là cuộc chiến tranh châu Á lớn nhất trong thế kỷ XX.
[5]“Lý Giáo phụ” và “Trần Tổng thống”: tức Lý Đăng-huy (李登辉) và Trần Thuỷ-biển (陈水扁), hai cựu tổng thống của Đài Loan, là những người chủ trương đưa Đài Loan trở thành một quốc gia độc lập. Tổng thống đương nhiệm của Đài Loan là Mã Anh-cửu (马英九, từ tháng 5.2008).
[6]“Quí tôn chi ưu, tiêu tường chi hoạ” [季孙之忧,萧墙之祸]: “nỗi lo âu của đứa cháu cuối cùng [là] tai hoạ của bức tường đã nát”, ý nói cái vạ thường đến từ nội bộ (một gia tộc, nói rộng ra là một quốc gia).
TTXVN (Hongkong 22/8) - Với đầu đề trên, tạp chí Bình luận phòng vệ Hán Hòa số 9/2008 nhận định rằng cùng với việc xây dựng các căn cứ tàu ngầm bí mật ở đảo Hải Nam, hải quân và không quân Trung Quốc đang tăng cường xây dựng các căn cứ trên quần đảo Hoàng Sa, trong đó có xây dựng sân bay quân sự lớn nhất trên biển và trạm thu thập tin tức tình báo siêu cấp.
![]() |
Đảo Phú Lâm |
Tạp chí cho biết các loại ăng ten của trạm thu thập tin tức tình báo đã được bố trí dày đặc trên toàn bộ một đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa. Đảo nhỏ này thông qua một hành lang nhân tạo xây dựng trên biển đã nối liền với đảo Phú Lâm (Woody Island/Yongxing Dao, 永兴岛, Vĩnh Hưng đảo) [1] . Một số ăng ten cỡ lớn trang bị trên đảo có thể theo dõi được toàn bộ hoạt động trên Biển Nam Trung Hoa (biển Đông), bao gồm các tín hiệu vô tuyến điện cao tần của toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Philippines và với cả Malaysia. Những tín hiệu thu được từ các ăng ten sẽ được đưa vào ghi âm và xử lý tại 4 tòa nhà lớn xây dựng trên đảo. Những căn cứ thuộc loại này sẽ do phòng 3 và phòng 4 thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng [Trung Quốc] (PLA) quản lý. Phòng 3 phụ trách thu thập, phân tích và giải mã tin tức tình báo thu được. Phòng 4 phù trách đối kháng điện tử, thu thập tin tức từ sóng ra đa. Tất cả những tin tức tình bảo thu thập được sau khi tập hợp lại, sẽ do Bắc Kinh phụ trách phân tích, giải mã. Ngoài những mật mã của Mỹ và Nga chưa thể phá nổi ra, mật mã quốc phòng của các nước xung quanh đều đã từng bị giải mã.
Sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm của quần đảo Hoàng Sa cũng được xây dựng lại, đường băng hiện đã dài hơn 2.500m, một bộ phận đường băng đã vươn ra tận biển, đủ để cho bất kỳ loại máy bay thế hệ ba nào của Trung Quốc như SU-30MKK có thể lên xuống. Sân bay xây một trạm ra đa, 4 nhà kho chứa xăng dầu cỡ lớn, 4 nhà kho chứa máy bay có thể dùng để sửa chữa máy bay, mỗi kho có thể chứa 2 máy bay. Do khí hậu nóng ẩm nên việc xây nhà kho chứa máy bay là rất cần thiết.
Căn cứ hải quân cũng được xây đựng lại, xây dựng đê chắn sóng, cầu tàu dài 500m, có thể neo đậu tàu khu trục và tàu hộ tống. Các công trình kiến trúc xây dựng trên đảo có thể đủ dùng cho hàng nghìn người sinh hoạt bình thường. Điều này cho thấy quần đảo Hoàng Sa đã trở thành căn cứ quân sự tổng hợp chủ yếu của hải quân, không quân và hệ thống thu thập tin tức tình báo của PLA. Tại đây mỗi tuần có 1 tàu đổ bộ chuyên chở nhiên liệu thực phẩm tiếp tế cho đảo.
Mục đích chủ yếu của việc hải quân và không quân Trung Quốc tăng cường xây dựng căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm là để xây dựng một căn cứ tiền duyên hùng mạnh, phối hợp với các căn cứ tàu ngầm và tàu nổi ở đảo Hải Nam, thâm nhập quân sự sâu hơn nữa vào toàn bộ khu vực Nam Hải. Một khi eo biển Đài Loan có chiến sự, đảo Phú Lâm sẽ là tàu sân bay không bao giờ chìm, giám sát quân Mỹ tăng viện từ hường Bắc của Ấn Độ Dương. Bán kính tác chiến của máy bay SU27, SU30MKK cất cánh từ quần đảo Hoàng Sa có thể bao trùm lên toàn bộ biển Đông, bao gồm Malaysia, Philippines và Brunei.
Nguồn: Thông tấn Xã Việt Nam, Tin tham khảo Thế giới ngày 23/8/2008, tr. 4-5.
*
Trung Quốc có bố trí tàu sân bay trong tương lai
TTXVN (Hongkong 2/9) - Với đầu đề trên, tạp chí Bình luận phòng vệ Hán Hòa số 9/2008 nhận định từ động thái nhập khẩu một số thiết bị quân sự của Nga, Trung Quốc có thể đóng 2 tàu sân bay đợt một.
Sau khi xây dựng xong căn cứ hải quân cỡ lớn ở Tam Á, người ta có thể phán đoán hạm đội Nam Hải sẽ được bố trí một tàu sân bay. Thời gian gần đây tại căn cứ Tam Á đã xuất hiện nhiều chiến hạm cỡ lớn cùng nhiều vũ khí tiên tiến khác.
Căn cứ hải quân ở vịnh Á Long thuộc Tam Á hiển nhiên được xây dựng theo tiêu chuẩn mới có thể neo đậu từ 1-2 tàu sân bay, một phân đội tàu khu trục, một phân đội tàu ngầm thông thường và một phân đội tàu ngầm hạt nhân. Vì vậy, tại căn cứ này xuất hiện 2 kho ngầm có ý đồ sử dụng cho 2 phân đội tàu ngầm neo đậu. Tại đây đã xây dựng 2 cầu tàu dài từ 450-500m dành cho tàu nổi và 2 cầu tàu dài 300m dành cho tàu ngầm. Chỉ riêng 2 cầu tàu dài 450-500m đã có thể neo đậu ít nhất một tàu sân bay và cộng thêm 1 2 tàu nổi khác; hoặc có thể neo đậu 2 tàu sân bay và 8 tàu nổi khác.
Về hạm đội Đông Hải, quan sát việc xây dựng các căn cứ tại đây cho thấy về tổng thể hạm đội Đông Hải có vẻ không được ưu tiên xem xét bố trí tàu sân bay. Sứ mệnh chiến thuật trực tiếp nhất của hạm đội Đông Hải là phong tỏa Đài Loan, tìm cách tiêu diệt các tàu chiến lớn của hải quân Đài Loan. Việc hoàn thành mục tiêu chiến thuật này không đòi hỏi tàu sân bay, mà chỉ riêng máy bay từ các căn cứ-trên đất liền cũng đủ sử dụng. Hiện nay, cầu tàu lớn nhất ở căn cứ Châu Sơn của hạm đội Đông Hải dài 400m, thiết kế để neo đậu tàu khu trục mang tên lửa 956E/EM, bình thường có thể neo đậu 2 chiếc tàu khu trục 956E; một cầu tàu khác dài 300m, còn các cầu tàu khác đều nhỏ.
Về hạm đội Bắc Hải trong mấy năm qua, tốc độ thay đổi trang thiết bị chậm nhất, điều kiện tại các căn cứ ở đây rất kém. Nhưng phán đoán từ động thái gần đây Trung Quốc tăng cường lực lượng quân sự ở bán đảo Sơn Đông cho thấy sứ mệnh chiến lược của hạm đội Bắc Hải đã thay đổi, thành trực tiếp theo dõi các tàu chiến của Mỹ và Nhật tiến xuống phía Nam, kiềm chế sự trỗi dậy của hải quân Hàn Quốc và của hạm đội Thái Bình Dương của Nga, hoàn thành sứ mệnh chiến lược phong tỏa phía Đông eo biển Đài Loan, cắt đứt tuyến đường vận chuyển trên biển mà tàu chiến Mỹ và Nhật Bản viện trợ cho Đài Loan, có thể vươn tới chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ hai từ hướng Bắc, kiềm chế quân Mỹ đóng ở căn cứ Guam. Điều đáng chú ý là tàu ngầm hạt nhân 091 lớp "Hán" đã nhiều lần tiến vào khu vực biển Guam, thậm chí thâm nhập vào lãnh hải Nhật Bản, đều xuất phát từ phân đội tàu ngầm hạt nhân số một của hạm đội Bắc Hải.
Do vậy, có thể thấy ý đồ chiến lược trên đã được quán triệt chấp hành. Động hướng về tàu sân bay Vayarg (mua của Ucraina) đang được cải tạo ở Đại Liên cũng đáng chú ý. Nó không thể neo đậu mãi tại cầu tàu, với tư cách là tàu huấn luyện, rất có thể do hạm đội Bắc Hải quản lý, căn cứ của nó sẽ được lựa chọn trong khu vực hoạt động của hạm đội Bắc Hải. Căn cứ hải quân Trường Gia Lầu ở Thanh Hải cũng là một căn cứ chủ yếu khác có thể sử dụng cho tàu sân bay neo đậu.
Nguồn: Thông tấn Xã Việt Nam, Tin tham khảo thế giới ngày 03/9/2008, tr. 4-5.
[1]Đảo lớn nhất Hoàng Sa, dài 1,7 km, chiều ngang 1,2 km, diện tích khoảng 1,3-2,1 km² (theo wikipedia, kể cả hình minh họa)
Hạm Đội Nam Hải của Trung Quốc - Mối Đe Dọa cho Việt Nam?
- Hoàng Tứ Duy, Washington DC
Gần đây, các websites tại Trung Quốc đăng kế hoạch quân sự tấn công Việt Nam. Theo một bản đồ trên mạng Sina, Quân Giải Phóng Nhân Dân sẽ tràn qua biên giới Việt-Trung qua đường bộ và một lực lượng thứ nhì sẽ đổ bộ vào Thanh Hoá từ đường biển.
Kế hoạch xâm lăng Việt Nam (source: Sina.com) |
Giới chức Bắc Kinh khéo léo phủ nhận là tác giả kế hoạch xâm lăng, sau khi họ để cho tài liệu này xuất hiện trên mạng nhiều ngày gây chú ý trong dư luận.
Trong cuộc chiến năm 1979, quân Trung Quốc đã một lần tràn qua biên giới từ phía bắc. Liệu ngày nay họ có chiến lược tấn công Việt Nam từ phía đông? Nhìn lại hai thập niên qua, Trung Quốc đã đầu tư vào chính khả năng này qua Hạm Đội Nam Hải của họ.
Hải quân Trung Quốc được tổ chức thành ba hạm đội. Hạm Đội Bắc Hải trách nhiệm vùng biển gần Hàn Quốc và Nhật Bản. Hạm Đội Đông Hải phụ trách vùng biển xung quanh Đài Loan. Hạm Đội Nam Hải trách nhiệm toàn Biển Đông, kể cả các căn cứ của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Theo truyền thống và cơ cấu chỉ huy, ba hạm đội hoạt động gần như độc lập với nhau.
Trong những năm đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hạm Đội Nam Hải không phải là trọng tâm. Các tàu chiến của hạm đội này là những tàu cũ của Quốc dân Đảng để lại. Lúc bấy giờ, ưu tiên của hải quân Trung Quốc là chiến tranh Triều Tiên và, trong nhiều năm sau đó, vấn đề Đài Loan.
Hạm Đội Nam Hải bắt đầu được tân trang từ khi Bắc Kinh cải cách kinh tế và các nhà lãnh đạo ý thức vai trò kinh tế và an ninh của Biển Đông. Tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc đã dẫn đến chương trình hiện đại hóa quân đội, đồng thời gia tăng các nhu cầu về tài nguyên, lương thực, và thể diện quốc gia.
Biển Đông là nơi có tiềm năng dầu lửa và giầu về hải sản. Bởi vậy, Bắc Kinh đã chính thức coi Biển Đông như là một nội hải (territorial sea) và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của họ, mặc dù vùng biển này cũng là nơi một phần tư mậu dịch thế giới vận chuyển qua.
Bộ Tư lệnh Hạm Đội Nam hải đặt tại bờ phía đông của bán đảo Lôi Châu (tỉnh Quảng Châu). Hạm đội này bao gồm 2 hải đội tiềm thuỷ đĩnh, 2 hải đội khu trục hạm và nhiều hộ tống hạm; với tổng số lên đến 50 tàu chiến. Theo các nguồn tin tình báo, Hạm Đội Nam Hải là hạm đội có nhiều tàu chiến nhất và được trang bị các chiến hạm hiện đại như tàu ngầm hạt nhân Type 094 đầu tiên của hải quân Trung Quốc.
Tàu ngầm hạt nhân Type 094 (source: SinoDefence.com) |
Để hiểu một phần nhiệm vụ của Hạm Đội Nam Hải, chúng ta hãy coi một sự kiện đặc biệt: Tất cả lực lượng thủy quân lục chiến và phần lớn tàu đổ bộ của Trung Quốc trực thuộc hạm đội này. Như vậy có nghĩa là lãnh đạo quân sự Bắc Kinh dự trù nơi có nhu cầu lớn nhất cho lực luợng đổ bộ chính là vùng hoạt động Biển Đông. Một vùng giáp với đất liền Việt Nam và các đảo tại Trường Sa có quân đội Việt Nam đồn trú.
Một sự kiện quan trọng khác là người ta khám phá một căn cứ bí mật cho tàu ngầm tại Tam Á (Sanya) trên đảo Hải Nam. Theo các hình chụp từ vệ tinh Hoa Kỳ, Trung Quốc đang xây cất các hầm dưới nước có thể chứa được trên 20 tầu ngầm. Khi hoàn tất, Tam Á sẽ là căn cứ thứ nhì của Trung Quốc cho tàu ngầm hạt nhân.
Cắn cứ tàu ngầm tại Tam Á (source: Daily Telegraph) |
Đồng thời, căn cứ hải quân này còn có bến tàu cho các tàu nổi. Theo các chuyên viên Tây phương, Tam Á có xác xuất sẽ là nơi đồn trú các hàng không mẫu hạm mà Trung Quốc có thể hạ thủy trong 5 đến 10 năm tới. (Để học nghề, họ đã mua của Nga máy bay Sukhoi Su-33 cất cánh trên tàu và của Ukraine hàng không mẫu hạm Varyag của Liên Xô cũ).
Cho nên từ địa điểm chiến lược Tam Á, Hạm Đội Nam Hải có thể khống chế Biển Đông, và gây không ít khó khăn cho hải quân Hoa Kỳ trong việc bảo vệ tự do hàng hải.
Thái độ của Bắc Kinh đối với Biển Đông càng ngày càng được thể hiện rõ. Cuối năm 2007 Quốc Vụ Viện Trung Quốc cho thành lập huyện Tam Sa để chính thức quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng vào thời điểm đó, Hạm Đội Nam Hải tổ chức tập trận lớn ở vùng Hoàng Sa gồm các kế hoạch tiếp vận và đổ bộ lên đất liền.
Mối đe đọa từ Trung Quốc nói chung và Hạm Đội Nam Hải nói riêng không chỉ là vấn đề giả thuyết. Năm 1974, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1988, họ lại chiếm một số đảo tại Trường Sa từ quân đội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Năm 1995, Trung Quốc đã nổ súng với Phi Luật Tân tại Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Và còn bao nhiêu lần khác Trung Quốc giết hại ngư dân Việt Nam hay đụng độ với hải quân Việt Nam nhưng đã không được công bố.
Kế hoạch tấn công Việt Nam trên mạng Sina chỉ là sự nhắc nhở.
Trung Quốc đi quá đà
Tuy nhiên, không chỉ có Việt Nam để ý. Nhiều quốc gia trong vùng Thái Bình Dương, có kinh tế dựa vào mậu dịch và tự do hàng hải, đang theo dõi kỹ dự tính và khả năng quân sự của Trung Quốc.
Nước Úc, với một thủ tướng thân Tàu nói thông thạo tiếng Quan Thoại, đang phải duyệt xét chính sách quốc phòng. Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và kể cả Ấn Độ e dè về Hạm Đội Nam Hải. Họ thấy Trung Quốc áp dụng “chính sách chuỗi hạt trai” qua việc thành lập nhiều căn cứ hải quân để phóng sức mạnh, từ bờ phía nam của Miến Điện, đến đá Vành Khăn tại Trường Sa, rồi Đảo Phú Lâm (Woody Island) tại Hoàng Sa, và Tam Á tại Hải Nam.
Qua thái độ hung hăng, để xác định tư thế quốc gia và tránh bị phong toả, Bắc Kinh đang góp phần tạo kết quả ngược lại ý muốn của họ, cho người ta thấy sự thiếu tự tin và tự cô lập chính mình.
Đối sách của Việt Nam?
Có lẽ giải pháp cho những người Việt Nam yêu nước nằm trong các bài học ngàn đời của lịch sử. Trung Quốc là nước lớn. Để đối phó với cường quốc phía Bắc, Việt Nam cần xây dựng nội lực và theo đuổi chính sách đối ngoại sáng suốt, đặt quyền lợi đất nước trên hết. Chọn lựa này bao gồm (ít nhất) ba khía cạnh.
Thứ nhất, để giảm thiểu rủi ro xung đột quân sự với Trung Quốc, Việt Nam phải xây dựng khả năng quốc phòng để tạo thế gián chỉ (deterence). Trong nhiều năm qua, chính quyền Hà Nội đã duy trì quân đội theo mục tiêu chính trị để bảo vệ chế độ thay vì có khả năng bảo vệ đất nước.
Thứ nhì, Việt Nam cần phối hợp với các nước trong ASEAN cùng với các quốc gia khác muốn tìm kiếm giải pháp hoà bình cho tranh chấp Biển Đông. Hơn nữa, quan niệm muốn làm bạn với mọi quốc gia là phải sáng suốt để phân biệt giữa các nước coi trọng tự do và có một chế độ tiến bộ với những nước là chỗ dựa cho độc tài và lạc hậu xã hội.
Thứ ba, Việt Nam phải có tự do dân chủ. Chỉ một thể chế dân chủ mới có thể huy động đại đoàn kết dân tộc và tạo điều kiện cho dân giầu, nước mạnh.
Thật ra, kế hoạch tấn công Việt Nam trên mạng Sina ở đầu thế kỷ 21 khá giống kế hoạch xâm lăng Việt Nam (đã thất bại xưa kia) của quân Mông Cổ vào cuối thế kỷ 13. Lúc bấy giờ nhà Trần đã phát huy tinh thần Diên Hồng để huy động toàn dân đánh thắng quân Nguyên Mông, mặc dù quân Nguyên đã đánh chiếm toàn Châu Á, cộng với nửa Châu Âu. Câu hỏi đặt ra là nhờ đâu mà dân tộc Việt Nam đã đánh thắng một đế quốc hùng mạnh như vậy?
Thử thách hôm nay là cần biết dựa vào sức mạnh dân tộc để canh tân đất nước và tránh gây ra chiến sự với bất cứ quốc gia nào.
No comments:
Post a Comment