Dư chấn sau "cơn bão" tài chính tàn khốc | ||||||||
20/10/2008 08:31 (GMT + 7) | ||||||||
Những ngày trung tuần tháng 9 là những ngày đen tối đối với thị trường tài chính Mỹ, tuy rằng giai đoạn đen tối nhất dường như đã trôi qua, nhưng dư chấn sau một tuần tàn khốc vẫn khiến ngay cả những chuyên gia kinh tế phải bàng hoàng... | ||||||||
Các biện pháp này đã có hiệu quả tức thì đối với các thị trường cổ phiếu, giờ đã tăng trở lại để xóa bỏ gần hết những mất mát của một tuần bất thường. Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đóng cửa trong ngày ở mức 11388,44 điểm, tăng 368,75 điểm, tức 3,35 %. Chỉ số chứng khoán đầu đàn hiện tại chỉ thấp hơn 33 điểm của mức đóng cửa 1 tuần trước. Các chỉ số chứng khoán Hoa Kỳ khác cũng được ghi nhận tăng ở mức tương tự. Bộ tài chính Hoa Kỳ lên tiếng, họ sẽ cung cấp một khoản bảo hiểm 50 tỷ USD để bảo lãnh cho giá trị của các quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ, các quỹ này đang bị rút ra rất lớn bởi nhiều nhà đầu tư hoang mang. Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve) cũng cho rằng họ sẽ bỏ tiền mua chứng khoán từ các quỹ này để giúp các nhà quản lý quỹ tăng tiền mặt chi trả cho những nhà đầu tư muốn rút tiền về. Trong khi đó, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch ngày hôm qua đã bắt đầu lệnh cấm trong 2 tuần việc bán khống với các cổ phần của gần 80 công ty tài chính, sau khi các ủy viên ban chấp hành của ngành công nghiệp phàn nàn về việc bán khống đã làm trầm trọng hơn sự sụt giảm đột ngột trên thị trường chứng khoán và làm trầm trọng hơn cơn khủng hoảng tín dụng. Bán khống chủ yếu là một vụ cá cược mà giá chứng khoán của một công ty nào đó sẽ giảm xuống, các nhà đầu tư vay chứng khoán và bán chúng đi, hi vọng khi mua lại với giá thấp hơn nhằm thu lợi nhuận. Những giải pháp này là một phần của kế hoạch lớn hơn mà chính quyền Bush đang vạch ra với các nhà lãnh đạo quốc hội, nhằm tái thiết lại hệ thống tài chính quốc gia đã bị bóp méo. Sức ép chủ yếu là đề nghị chính phủ Mỹ mua các tài sản đang trong tình trạng hỗn loạn của các ngân hàng và các hãng khác, xóa bỏ thua lỗ trong sổ sách của họ để họ có thể bắt đầu vay mượn lại. “Những biện pháp này sẽ khiến chúng ta đặt một lượng tiền đáng kể của người đóng thuế vào rủi ro” - Tổng thống Bush thừa nhận. Tuy nhiên, ông nói thêm: “Nhưng nếu cứ ‘án binh bất động’ thì rủi ro sẽ còn đi xa hơn nữa. Sức ép gia tăng lên thị trường tài chính của chúng ta sẽ gây ra mất việc hàng loạt, phá hủy các khoản lương hưu, và xa hơn nữa là thâm hụt thêm giá trị nhà ở cũng như làm cạn khô các khoản vay nợ cho những ngôi nhà mới, những chiếc xe mới và học phí ở các trường học. Đây là những rủi ro mà nước Mỹ không thể kham nổi”. Các chuyên gia tài chính cho rằng, sự kết hợp các biện pháp chính là can thiệp quan trọng nhất của chính phủ Mỹ trong nền kinh tế, kể từ khi các công cuộc cải tổ New Deal[1] của những năm 30 nhằm phục hồi cuộc Đại khủng hoảng. Bộ trưởng tài chính Hoa Kỳ, ông Henry Paulson phát biểu rằng mức độ trợ giúp của của chính phủ Mỹ là rất lớn.
“Chúng ta đang nói về hàng trăm tỷ đô la” - ông Paulson nói - “số tiền này cần đủ lớn để tạo ra một sự khác biệt thực sự và giải quyết được trọng tâm của vấn đề”. Các biện pháp nhằm vào các quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ đang được đón nhận nồng nhiệt bởi các công ty đầu tư, sau khi các nhà đầu tư (phần lớn là các tập đoàn hoặc các tổ chức) đã rút ra 210 tỷ USD từ các quỹ tương hỗ trên, để đầu tư an toàn vào các khoản tiền gửi tại ngân hàng và chứng khoán như hối phiếu Ngân khố quốc gia Mỹ (với lãi suất thấp hơn 1%). Vào hôm thứ năm, Putnam Investments bất ngờ đóng cửa quỹ “Prime Money Market Fund”[2] trị giá 12.3 tỷ USD của họ, sau khi quá tải với các đòi hỏi rút tiền từ các nhà đầu tư. Khoản bảo hiểm cho quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ khác biệt hơn so với chương trình cung cấp một khoản bảo hiểm 100.00 USD cho các tài khoản ngân hàng truyền thống của Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC). Khoản bảo hiểm mới cho quỹ tương hỗ, theo như các quan chức chính phủ thông báo ngắn gọn về kế hoạch hỗ trợ, chỉ có thể áp dụng cho những quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ bị buộc phải đóng cửa do làn sóng đòi rút tiền của các nhà đầu tư đang bị đe dọa từ các khoản lỗ. Khoản bảo hiểm này sẽ được sử dụng để chi trả cho các nhà đầu tư có những khoản lỗ phát sinh từ các quỹ đầu tư trên. Đầu tuần trước, cổ phần của 5 quỹ tương hỗ tiền tệ hay các tài khoản cùng loại đã tụt xuống duới ngưỡng 1 USD/ 1 cổ phần (quỹ tương hỗ này đặt mục tiêu duy trì ở mức 1 USD/ 1 cổ phần), một phần do sự phá sản của công ty dịch vụ - tài chính Lehman Brothers Holdings Inc. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư vào quỹ này xếp hàng để đòi lại dưới một đô la cho mỗi một đô la họ gửi vào. Việc bảo hiểm được dự tính kéo dài chỉ một năm. Các nhà đầu tư vẫn nhìn nhận các quỹ thị trường tiền tệ là an toàn như các tài khoản trong ngân hàng, trong khi chúng là các phương tiện đầu tư, do vậy việc mất tiền vẫn có thể xảy ra. Các tài khoản trong ngân hàng khác với các tài khoản đầu tư vào quỹ thị trường tiền tệ ở chỗ: Các khoản đầu tư vào quỹ thị trường tiền tệ được chào mua bởi các ngân hàng và các nhà môi giới, mà song hành với họ là Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ FDIC. Thêm vào đó, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Boston (Federal Reserve Bank of Boston) sẽ đề xuất một chương trình cho vay với ý định làm giảm các áp lực trong các quỹ thị trường tiền tệ, theo như phát biểu của một nhân viên cao cấp của ngân hàng dự trữ muốn được giấu tên do các cuộc thảo luận mới đang diễn ra. Với chương trình này, các ngân hàng có thể mượn tiền của liên bang để mua một số loại chứng khoán từ các quỹ thị trường tiền tệ. Các quỹ này sau đó sẽ sử dụng tiền thu được của các đợt bán này để trả lại cho các nhà đầu tư. Với 3,3 nghìn tỷ đô la trong tài sản, các quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ đã nắm giữ một tỷ lệ lớn trong quỹ tiết kiệm quốc gia. Giáo sư Samuel Hayes ở trường Kinh doanh Harvard cho rằng kế hoạch bảo vệ các quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ gây ấn tượng như “kỳ nghỉ ngân hàng” được Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên bố vào năm 1933 để bảo vệ các quỹ tiết kiệm và các tổ chức cho vay khỏi dòng chảy tàn hại tiền gửi của họ.
“Không gì có thể so sánh được với điều này, kể từ những năm 30” - Hayes nhận xét. Một biện pháp đặc biệt khác được áp dụng là lệnh cấm bán khống các cổ phiếu của những công ty tài chính. Ủy ban chứng khoán và giao dịch cũng yêu cầu các nhà đầu tư lớn tiết lộ những chứng khoán mới đã bị bán khống. Hãng này nói có thể mở rộng cả hai yêu cầu ra ngoài ngày mùng 2 tháng 10. Trong khi ban hành lệnh cấm, Ủy ban chứng khoán và giao dịch (SEC) nói họ lo ngại các vụ bán khống đang gây ra sự giảm giá liên tiếp của chứng khoán tài chính. “Những giảm sút về giá có thể khiến mọi người đặt ra câu hỏi về tình hình tài chính của đơn vị phát hành chứng khoán, điều này có thể gây ra 1 cuộc khủng hoảng về lòng tin theo kiểu domino mà không có một cơ sở nền tảng nào”. Theo sau một lệnh cấm tương tự hôm thứ năm của giới chức Anh là hành động của Ủy ban chứng khoán, dù rằng nó sẽ kéo dài trong 3 tháng. Nhân viên tài chính Timothy Cahill của bang Massachusetts nói văn phòng của ông được các ủy viên ban quản trị ngân hàng đầu tư Morgan Standley yêu cầu bang kiềm chế không cho những người bán khống săn lùng chứng khoán ngân hàng. Bang này trước đó đã dừng việc cho vay. Ngân hàng Morgan Stanley từ chối đưa ra bất kỳ lời bình luận nào. Cahill cũng nói tuần trước rằng ông đã nhận được các cuộc gọi từ các tổ chức khác, các tổ chức mà ông từ chối nêu danh, nhằm đe dọa để ông kéo tiền đầu tư của bang ra khỏi các ngân hàng như Morgan Stanley. Cahill nói ông lờ đi những đe dọa này bởi vì ông nghi ngờ những kẻ gọi đang cố gắng lợi dụng tình trạng rối ren để nhấn chìm các ngân hàng này. “Trong tuần trước, tôi đã thấy những gì mà không bao giờ tôi nghĩ là mình sẽ thấy” - Cahill nói. Trong khi đó, các nhà quản lý quỹ những người sở hữu chứng khoán khống nói họ không ngạc nhiên trước những hành động do sức ép chính trị. “Ý tưởng là bạn không thể bán khống 800 cái tên, rồi đe doạ tôi như các nhà tư bản của một thị trường tự do” - Bob Jones, người quản lý một quỹ chứng khoán ngắn và dài hạn 100 triệu USD tại Robeco Boston Partners ở Boston nói - “Nhưng tôi có thể thấy rằng đây không phải là điều tồi tệ với tất cả những ai bước lùi lại và hít một hơi thở sâu”. - Bài viết của Ross Kerber trên HBS In The New –
[1] The New Deal là công cuộc cải tổ do Tổng thống Franklin D. Roosevelt đề ra và thực hiện từ năm 1933 đến năm 1936, bao gồm một chuỗi các chương trình cải cách với mục tiêu giảm thất nghiệp, phục hồi nền kinh tế trong thời gian đại suy thoái. [2] A prime money market fund là một loại quỹ tương hỗ được yêu cầu bởi pháp luật để đầu tư vào những chứng khoán có độ rủi ro thấp. Những quỹ này có độ rủi ro khá thấp so với các quỹ tương hỗ khác và chi trả cổ tức mà nhìn chung là phản ánh những lãi suất ngắn hạn. |
Wednesday, October 29, 2008
Cơn địa chấn Phố Wall: Khủng hoảng về đường lối lãnh đạo
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment