Friday, October 31, 2008

Phát triển mà không thích nghi được, hoặc thích nghi được mà không phát triển được, kiểu gì cũng thua

"Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong quần áo thiếu niên"
31/10/2008 10:11 (GMT + 7)
Sự giảm sụt thứ hạng cạnh tranh nói lên cái ngưỡng không thể vượt qua được của một phương thức phát triển kinh tế theo chiều rộng Việt Nam đã theo đuổi trong suốt 22 năm Đổi mới. Đã đến lúc Việt Nam cần chuyển giai đoạn nếu không muốn tụt hậu - Nguyễn Trung nói.

Trên diễn đàn Quốc hội, những vấn đề kinh tế nóng bỏng đang được các đại biểu mổ xẻ, phân tích để chung tay cùng với Chính phủ đưa kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển sau "bão". Chuyên gia Nguyễn Trung chia sẻ góc nhìn của ông về tình hình kinh tế Việt Nam và những vấn đề cần được đặt ra và giải quyết thấu đáo.

Chuyên gia Nguyễn Trung. Ảnh VNN

Đến lúc phải đụng vào "gốc" của lạm phát

1. Nhìn vào những chỉ số CPI, nhập siêu mới nhất, lạc quan hay bi quan lúc này không thích hợp lắm. Bình tĩnh nhận xét, tôi cho rằng những chỉ số CPI và nhập siêu đang giảm là những kết quả tốt đầu tiên trong quá trình thực hiện 8 biện pháp chống lạm phát.

Điều này cho thấy VN có thể chống được lạm phát trong tình hình rất phức tạp hiện nay, nhắc nhở chúng ta nên tiếp tục làm những việc đúng đắn. Nghĩa là VN cần cố gắng hơn nữa trong những việc làm chưa tốt: hiệu quả đầu tư công và DNNN, chống lãng phí, chống tham nhũng...

Các giải pháp thắt chặt đầu tư, chi tiêu công Chính phủ đưa ra nhưng thực hiện còn chậm bởi 2 loại nguyên nhân chính. Một là, thắt chặt đầu tư trong khu vực kinh tế quốc doanh - nhất là đầu tư từ ngân sách nhà nước, và trong chi tiêu công là những công việc khó; không thể nói là làm ngay được, mà đòi hỏi phải có sự cân nhắc, tính toán, sắp xếp lại rất nhiều thứ một cách thấu đáo, nhưng phải khẩn trương như cứu hỏa.

Công việc này rất phức tạp, thường là "dứt dây động rừng" - nghĩa là cắt giảm một khoản này sẽ kéo theo sự hy sinh hay đổ vỡ của những khoản mục khác, việc khác; và sự cắt giảm này bao giờ cũng rất đau đớn - vì không hiếm trường hợp là cắt luôn cả những “lợi” và “ ích” này khác, hoặc nếu vụng về là gây thêm tổn thất không đáng có. Ví dụ, cắt giảm chi tiêu công mà chỉ chằm chằm vào cắt giảm khoản mục chi tiêu thường xuyên của một cơ quan thì dễ rơi vào nguy cơ làm tê liệt cơ quan ấy.

Nguyên nhân thứ hai có thể mô tả bằng hình ảnh: Giả thử trên thân thể mình có khuyết tật, như một nốt ruồi to hay một cục thịt thừa, ít ai dám tự tay đốt hoặc cắt bỏ nó đi - với biện minh trước xã hội, hoặc tự biện minh cho chính mình: “Liệu hồn, đụng vào là dính ung thư đấy!”

Việc xử lý loại nguyên nhân thứ hai có thể được dùng làm thước đo sự sáng suốt và bản lĩnh của người cầm quyền, bởi sự tự giác của các Bộ, ngành hay tập đoàn thường thấp hơn đòi hỏi của 8 biện pháp.

Có thể nói, những vấn đề thuộc tầng “ngọn” của lạm phát - trước hết là những vấn đề tài chính tiền tệ - đang được giải quyết đúng hướng. Đã đến lúc ta phải thực sự bắt tay vào giải quyết những vấn đề thuộc tầng “gốc”: tập đoàn và DNNN, cơ cấu kinh tế, hệ thống tài chính - ngân hàng, chính sách phát triển và đầu tư...

Chất lượng tăng trưởng mới là vấn đề nóng bỏng

2. Nhiều người vẫn loay hoay với câu hỏi, liệu VN có thể đạt con số tăng trưởng là bao nhiêu, có thể đạt mức 7% như Chính phủ kỳ vọng và đặt mục tiêu. Theo tôi, tăng trưởng là quan trọng, cần phấn đấu, nhưng cũng không nên quan tâm nhiều đến chỉ số tăng trưởng cao. Đạt 5,5% hay 7% không phải là điều tôi lo lắng. Nếu vì những lý do nhất định - ví dụ như cần giữ ổn định vĩ mô trong tình hình cả thế giới sóng gió vì khủng hoảng tài chính, chỉ số tăng trưởng có phải giảm cũng không sao.

Giải quyết các vấn đề gốc của lạm phát hiện nay đã phải tính đến trong bước chuyển của nền kinh tế. Trong ảnh: ĐBQH trong giờ giải lao. Ảnh: Lê Anh Dũng


Chất lượng tăng trưởng kinh tế lâu nay vẫn là vấn đề nóng bỏng của nước ta.

Những thách thức VN đang phải đối mặt và sự cạnh tranh gay gắt trong hội nhập không cho phép kéo dài tình trạng chất lượng tăng trưởng thấp nữa.

Việt Nam đã kịch trần phát triển kinh tế theo chiều rộng

Chất lượng kinh tế gắn với năng lực cạnh tranh. Trong khi đó, những xếp hạng mới đây đều cho thấy VN đang tụt hạng: Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF, năng lực cạnh tranh của kinh tế VN 3 năm liền tụt hạng từ thứ bậc 64 năm 2006, xuống thứ bậc 68 năm 2007 và thứ bậc 70 năm 2008. Đó là cảnh báo nghiêm trọng từ bên ngoài, nhắc nhở chúng ta: Không thể tiếp tục duy trì phương thức phát triển chủ yếu dựa vào tăng đầu tư, khai thác lao động rẻ, bán tài nguyên và cách thu hút FDI như hiện nay.

Riêng về FDI, “Vedan” và hạt “nix” là những ví dụ điển hình nói lên nhiều điều. Thu hút FDI như vậy trên thực tế là cho thuê đất để làm ra những sản phẩm hàm lượng công nghệ thấp nhưng sức tàn phá môi trường cao... Như thế là quá đủ rồi.

Sự thật là kinh tế nước ta, nhất là từ 10 năm nay, đạt tốc độ tăng trưởng cao, song chậm phát triển - biểu hiện dễ thấy nhất là càng tăng trưởng càng mất cân đối trên cả 3 phương diện quyết định: kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, năng lực quản trị quốc gia.

Tiếp tục xu thế này có nghĩa VN sẽ đi sâu hơn vào con đường đi làm thuê và sẽ chỉ có thể trở thành đất nước cho thuê, với những mất cân đối lớn kinh niên. Đây sẽ là kịch bản đầy ác mộng.

Năng lực cạnh tranh của ta hiện giảm sụt liên tục, không đơn thuần chỉ là chuyện thua kém của một sản phẩm, một DN hay một ngành kinh tế nào nữa. Sự giảm sụt này nói lên cái ngưỡng không thể vượt qua được của một phương thức phát triển kinh tế theo chiều rộng nước ta đã theo đuổi trong suốt 22 năm Đổi mới.

Có thể nói, phương thức này đã làm xong nhiệm vụ của nó, thậm chí có thể nói là xuất sắc. Vả lại, 22 năm đi theo phương thức phát triển như thế là quá đủ rồi, kịch trần rồi, không còn nhiều “dư địa” để cứ tiếp tục đi mãi theo hướng này - về bất kể phương diện nào: tài nguyên, môi trường, đất đai, sức lao động rẻ, huy động vốn nước ngoài theo cách hiện nay, năng lực quản trị quốc gia hiện nay...

Chuyển giai đoạn?

Tôi nghĩ tình hình đã chín muồi phải tìm đường chuyển bằng được sang một phương thức phát triển khác cao hơn. Không nhận thức được yêu cầu bức bách này sẽ là tự gây ra hiểm họa.

Tuy nhiên, dù sốt ruột đến mấy về tình trạng tụt hậu cũng không thể phát triển đất nước ào ào một cách nóng vội theo kiểu tư duy đào tạo hai vạn tiến sỹ, khai thác bauxite ở Tây Nguyên, làm một lúc 4 nhà máy điện hạt nhân... Lại càng không nên khai thác bauxite Tây Nguyên hôm nay để sẽ có một “Vedan” toàn diện và khổng lồ mai sau.

Khác với trước, giai đoạn phát triển mới cần phải dựa trên phát huy nguồn lực con người và xu thế hội nhập. Chính đặc điểm này đòi hỏi cải cách thể chế, hệ thống quản lý, cơ chế quản lý quốc gia, nói cách khác là cải cách hệ thống chính trị, phải đi trước cải cách kinh tế một bước.

Bởi vì làm sao phát huy được nguồn lực con người nếu không có một thể chế chính trị phát huy được nguồn lực sáng tạo của con người? Đất nước làm sao hội nhập thắng lợi nếu thiếu một thể chế chính trị phát huy được sự sáng tạo của mọi công dân, thiếu một nhà nước thao lược hậu thuẫn đắc lực cho công dân của mình?

Có con người và nhà nước như vậy, mới có thể có công nghiệp hóa - hiện đại hóa với đúng nghĩa của khái niệm này - nếu không, xin nhắc lại, sẽ chỉ có người đi làm thuê và trở thành đất nước cho thuê mà thôi. Lâu nay ta nói nhiều về CNH-HĐH, song thật sự là chưa quan tâm được như thế về con người và về nhà nước với nội dung mới này. CNH-HĐH không bao giờ chỉ là vấn đề kinh tế.

Giai đoạn phát triển vừa qua ở mức độ nào đó còn cho phép, còn có thể chấp nhận sự chậm trễ nào đó của cải cách thể chế; và đất nước đã trả giá cho sự khập khiễng này. Bây giờ, nếu cải cách thể chế không đi trước được một bước, hoặc thậm chí còn duy trì sự khập khiễng đang có, việc chuyển đất nước đi vào giai đoạn phát triển mới có lẽ sẽ chỉ là không tưởng.

Cuộc cải cách nào cũng chỉ có thể bắt đầu từ nhận thức và từ cải cách thể chế đi trước một bước. Đổi mới từ năm 1986 bắt đầu từ nhận thức phải xóa bỏ thể chế kinh tế kế hoạch hóa theo kiểu bao cấp, đã từng bước làm được các việc xóa bỏ thể chế này.

22 năm đổi mới đủ nói lên cải cách thể chế không làm sụp đổ chế độ chính trị của đất nước. Song 22 năm Đổi mới cũng cho thấy rõ ràng phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế để tiếp tục phát triển đất nước về mọi mặt, kể cả phát triển hệ thống chính trị. Đó là một tất yếu, cả nước phải bắt tay vào thực hiện bằng được.

Khi tiến hành Đại hội X, đã có nhiều ý kiến về chuyển giai đoạn của công cuộc Đổi mới, song chưa được đưa vào nghị quyết Đại hội. Bây giờ là giữa nhiệm kỳ Đại hội, tình hình hiện nay càng thúc bách phải đặt vấn đề “chuyển giai đoạn” lên bàn nghị sự, với một nội hàm rộng hơn.

Có người sẽ đặt câu hỏi: đang khủng hoảng lạm phát 2 con số mà ông nói đến “chuyển giai đoạn” thì có thích hợp không? Theo tôi, khủng hoảng chỉ là vấn đề tạm thời, trước mắt và cần khắc phục sớm. Ngay từ bây giờ đã phải phải tính đến xử lý những nguyên nhân gốc dẫn tới khủng hoảng, để tránh tình trạng yên ổn được vài năm rồi lại khủng hoảng tiếp. Nếu vậy, không thể không tính đến việc chuyển giai đoạn.

Nói một cách khác: Ngay từ bây giờ, việc khắc phục những nguyên nhân gốc phải tính theo hướng chuyển giai đoạn.

Nhà nước thao lược làm chủ tình hình để tránh đổ vỡ

3. Nhiều đêm tôi khắc khoải với mong muốn: Phải chi vào lúc này GDP kinh tế Viêt Nam đã đạt được mức 3 - 4 nghìn USD/người sẽ đỡ bị o ép biết bao trong tình hình thế giới ngày nay! Lẽ đời thường là mạnh được yếu thua, càng yếu càng dễ bị bắt nạt! Vì thế, trong mọi nỗi lo, không có nỗi lo nào lớn hơn nỗi lo tụt hậu. Vào lúc kinh tế thế giới chao đảo như thế này, tụt hậu như đang có thêm nanh vuốt mới gằm ghè...

Khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay thôi thúc ta phải mau sớm ra khỏi tụt hậu! Có nhiều điều cần học hỏi từ những kinh nghiệm đổ vỡ của khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay.

Tăng trưởng là quan trọng, cần phấn đấu, nhưng cũng không nên quan tâm nhiều đến chỉ số tăng trưởng cao. Ảnh: ANTĐ


Các chuyên gia người Việt trong nước hoặc đang sống ở nước ngoài... gần đây nêu nhiều kinh nghiệm và bài học cụ thể rất có ích cho nước ta - nhất là trong các vấn đề liên quan đến hệ thống tài chính - ngân hàng của nước ta, cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế, tập đoàn quốc doanh... Xin miễn cho tôi việc nhắc lại.

Tựu chung lại, tôi thấy: Không có kinh tế thị trường phát triển cao thì không phát triển năng động được; nhưng không có nhà nước thao lược làm chủ được quá trình phát triển này thì đổ vỡ - đến nỗi giỏi như Mỹ và nhiều nước tư bản phát triển khác cũng khó thoát được khủng hoảng.

Tôi khao khát cho nước mình có được nhà nước thao lược cho quốc gia và đảm bảo dân chủ của dân. Tôi mong Đảng lãnh đạo phát huy được trí tuệ và ý chí của nhân dân xây dựng bằng được một nhà nước như vậy. Đây là cái nước ta đang cần nhất, chứ không phải là FDI hay công nghệ cao hay bất cứ cái gì khác!

Xây dựng được một thiết chế như vậy, dân tộc Việt Nam sẽ tự đổi mới chính mình và sẽ có tất cả.

Chàng trai 22 tuổi không thể sống mãi trong bộ quần áo thiếu niên

Phải chờ đến lúc có khó khăn mới có cơ hội nhìn nhận lại mình là chuyện bất đắc dĩ, nhưng trong khó khăn mà còn không chịu nghiêm túc nhìn nhận lại mình thì còn tệ hơn nhiều lần. Nói thế, để thấy rằng bây giờ bắt buộc phải nhìn nhận lại mình, nhìn nhận một cách tỉnh táo - như một thời Đại hội VI của ĐCSVN đã làm việc này.

Bản thân những thành tựu đạt được trong 22 năm đổi mới đặt ra đòi hỏi này - giống như chàng trai 22 tuổi không thể cứ sống mãi trong bộ quần áo thiếu niên. Những đòi hỏi mới của phát triển và những thách thức trong hội nhập từ khi là thành viên WTO cũng đặt ra đòi hỏi mới này.

Hãy khoan nói đến chuyện bài toán nào cho cải cách; vấn đề trước tiên là cần nhận thức sâu sắc thực tế bức xúc là phải đi vào một thời kỳ cải cách cao hơn, sâu rộng hơn, triệt để hơn. Nhận thức đã ghi được trên nhiều văn bản chính thống - các báo cáo chính trị của các kỳ Đại hội Đảng CSVN, các báo cáo của Thủ tướng chính phủ trước Quốc hội, là sự chậm trễ của cải cách thể chế (trong đó cải cách hành chính chỉ là một bộ phận) đang kìm hãm sự phát triển mọi mặt của đất nước. Bây giờ là lúc phải hành động khắc phục sự chậm trễ này.

Thích nghi và phát triển

Trong khủng hoảng, các quốc gia trên thế giới đều phải tự thay đổi chính mình để ứng phó, thay đổi để thích nghi và phát triển được trong tình hình mới. Ngay ở Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, người ta cũng phải tính đến thay đổi rất nhiều trên 2 hướng: vai trò của nhà nước phải làm tốt hơn nữa điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho người lao động Mỹ thích ứng được với tình hình cơ cấu kinh tế và do đó cơ cấu lao động ở Mỹ đang có nhiều thay đổi lớn ở nấc thang hiện tại của quá trình toàn cầu hóa. Nhiều học giả Mỹ cho rằng chính nước Mỹ cũng chưa thích nghi tốt quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày nay.

Thực tế này càng nhắc nhở chúng ta phải nỗ lực làm cho kinh tế nước ta thích nghi và phát triển được trong tình hình mới.

Có hai vấn đề lớn cần đặc biệt quan tâm, đó là (a) dứt khoát phải chuyển sang phát triển chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người và hội nhập; (b) cần quan tâm đúng mức phát huy lợi thế Việt Nam là một nền kinh tế lớn, một thị trường lớn của một quốc gia có dân số đứng thứ 13 trên thế giới.

Đó cũng là hai điều kiện để kinh tế nước ta có thể thích nghi và phát triển được trong thế giới ngày nay.

Xin lưu ý: phát triển mà không thích nghi được, hoặc thích nghi được mà không phát triển được, kiểu gì nước ta cũng thua trong hội nhập và cạnh tranh toàn cầu ngày nay; bởi vì so sánh lực lượng sẽ quyết định kết cục như vậy. Do đó tôi nghĩ rằng thành hay bại trong những điều tôi vừa trình bầy sẽ chi phối rất sâu sắc tình hình phát triển kinh tế xã hội nước ta trong một hai thập kỷ tới.

Thursday, October 30, 2008

Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ, Hành Trình Đầy Bí Ẩn

Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ, Hành Trình Đầy Bí Ẩn - Trần Phương
Click the image to open in full size.
Giáo sư Trần Phương kể.


Tôi có cô em gái, kém tôi hai tuổi (sanh năm 1929), tên là Vũ thị Kính, thuở nhỏ gọi tránh là Cánh. Từ hồi kháng chiến chống Pháp được biết đến cái bí danh Trần thị Khang. Cô tham gia Cách Mạng lúc 16 tuổi, tỏ ra là một giao liên gan dạ, một cán bộ phụ vận có uy tín. Năm 1950 cô là Huyện Ủy viên của Ðảng bộ Phù Cừ (ÐCSVN), Bí thư Phụ Nữ Cứu Quốc Huyện, người tổ chức chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt được cô từ hầm bí mật, đưa về bót La Tiến (bót đóng ngay trên bến đò La Tiến), là một bót khét tiếng tàn ác, một đồn binh lớn án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Thái Bình và phía tây tỉnh Hải Dương. Chúng biết cô là ai, vì vậy đã dùng mọi cực hình tra tấn, hòng buộc cô khai báo và đầu hàng. Trước khí tiết không lay chuyển của cô, chúng đã giết chết cô và vất xác cô xuống sông Luộc. Sau ngày cô hy sinh, đội nữ du kích Hoàng Ngân của huyện đã phát động: "Tuần lễ giết giặc, trả thù cho chị Khang". Chánh phủ đã truy tặng cô Huân Chương Kháng Chiến hạng nhì.

Huyện Ủy và đội du kích Hoàng Ngân đã tổ chức đi tìm xác cô, nhưng không thấy. Ðây là nỗi ray rứt xót xa của gia đình tôi suốt mấy chục năm, mặc dù vẫn biết rằng người chết thì mọi nỗi đau cũng chấm dứt. Mẹ tôi hồi còn sống, thỉnh thoảng lại hỏi tôi: "có tìm thấy xác em không? Tôi đành tìm lời an ủi: "Bao giờ chiến tranh hết, con sẽ tổ chức việc tìm kiếm, chắc là được mẹ ạ! Nói thế mà lòng tôi muốn khóc, vì biết mình bất lực trước nỗi đau của mẹ. Cả một dòng sông Luộc mênh mông như thế trôi ra biển cả, biết tìm kiếm nơi đâu?

Mươi năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt người thân, bằng gọi hồn, bằng ngoại cảm, bằng thấu thị. Tóm lại là bằng những phương pháp được xem là thần bí, chưa ai lý giải được. Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần khoa học thực nghiệm, cái gì chứng minh được mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Trong đời, tôi chưa bao giờ tin có linh hồn, thần, thánh, ma, quỷ. Ngay những ngày giỗ bố mẹ, tôi cũng không làm cơm cúng, không thắp hương, chỉ sửa một lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy mà khi nghe những tin trên, trong lòng tôi hé lên một niềm hy vọng mong manh: Biết đâu đấy? Nếu bằng phương pháp thần bí mà tìm được hài cốt em tôi thì có gì phải câu nệ, miễn là có cái gì đó để nhận biết hài cốt ấy đúng là của em tôi. Và điều này mới chính là điều khó nhất. Sau hơn năm chục năm trôi dạt, hài cốt có còn gì không để nhận ra em tôi? Nếu còn thì may ra là còn được hàm răng không nhuộm đen. Nhưng thời đó, thiếu gì con gái không nhuộm răng đen? Ðã có lần bạn bè mách bảo tôi một bộ hài cốt vô thừa nhận mà đặc biệt là hàm răng không nhuộm đen. Lúc đó, chính tôi đã phân vân: nhận một hài cốt mà trong lòng nghi hoặc mỗi khi tưởng niệm thì có ý nghĩa gì? Còn khám nghiệm DNA? Ðó là chuyện xa vời. Trong tình cảnh bất lực của chính mình và của khoa học thực nghiệm thì bất cứ phương pháp nào giải tỏa được nỗi ray rứt trong tôi và gia đình tôi đều phải được xem trọng. Nghĩ thế tôi bèn tìm cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có tiếng tăm. Một số thông tin báo rằng hài cốt vẫn còn, nhưng chưa có ai chỉ rõ được nơi chôn cất.

Giữa lúc ấy thì tôi gặp chị Tuyết Nga là người đã nhờ ông Liên tìm được mộ bà mẹ bị giặc sát hại từ những năm 60. Chị khuyên tôi nên tìm đến bạn chị là anh Nguyễn văn Nhã, một người nổi tiếng ở miền Nam, vì đã tìm thấy nhiều mộ liệt sĩ. Chị gọi điện cho anh Nhã, và ngay chiều hôm đó anh bay ra Hà Nội.

Sớm ngày hôm sau, ngày 25-7-1999, tôi gặp anh Nhã, anh chưa đến 50 tuổi, là một kỹ sư Hóa, Ðảng viên, nhiều năm làm công tác ở Đoàn Thanh Niên Cộngsản thành phố Hồ Chí Minh. Theo anh nói thì anh mới có khả năng đặc biệt này từ trước Tết và không được ai huấn luyện cả. Anh đã vẽ hơn sáu trăm ngôi mộ, tỷ lệ trúng đạt sáu chục phần trăm. Có những trường hợp trúng đến mức chính anh cũng phải kinh ngạc. Thông tin đến với anh như thế nào thì anh vẽ như thế ấy. Còn thông tin từ đâu đến, trúng hay trật, đối với chính anh cũng là điều bí ẩn.

Trong căn phòng làm việc của tôi, không có hương khói gì cả, anh hỏi tôi và vợ tôi mấy thông tin đơn giản: Cô em tên là gì? Sinh năm nào? Hy sinh ngày tháng nào? Ở đâu? Người đi tìm tên là gì? Anh lại hỏi bến đò La Tiến thuộc xã nào? Huyện Phù Cứ thuộc tỉnh nào? Bến đò ấy có cây cầu không? (chứng tỏ anh không biết gì về vùng đất đó cả). Rồi anh lấy một tờ giấy to và mấy cây bút màu ra vẽ bản đồ, vẽ một cách thư thả, lưu loát, không gạch xóa gì cả. Mọi việc chỉ diễn ra trong vòng mười phút.

Nhìn vào bản đồ, tôi thấy anh vẽ con sông uốn lượn đường to đường nhỏ giao nhau, rồi ghi: từ bến đò La Tiến đi về hướng Ðông Nam thấy một trường học, đi chừng 1 km 6 thì đến một ngã tư, phía trái ngã tư thấy một quán tạp hóa có cửa màu xanh dương, lúc đó rẽ tay phải, thấy một cái đình, đi chừng một km thì rẽ trái vào một con đường nhỏ, đi chừng 60 mét thì rẽ phải, đi chừng 45 mét nữa thì đến mộ. Mộ nằm trên đất cô Nhường 47 tuổi đối diện với mộ về hướng Tây là quán ông An 56 tuổi. Mộ chôn về hướng Tây, cách một gốc cây độ 4 mét, trên mộ có một khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và năm cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt.

Rồi anh hỏi tôi: Bao giờ thì đi tìm mộ? Tôi trả lời: Ðể chuẩn bị thì cũng phải 2 tuần nữa. Anh nói chậm quá, nên đi sớm. Tôi quyết định: 3 ngày nữa thì đi. Anh nói: Tôi phải cho anh một tín hiệu để dễ tìm. Hai con bướm nhé? Tôi nói: Hai con bướm thì sợ khó tìm. Anh ngẫm nghĩ mấy giây rồi nói: Vậy thì một bé gái nhé? Rồi anh ghi tiếp vào tấm bản đồ 13h30 ngày thứ tư 28 tháng 7 sẽ có một bé gái chừng 11 tuổi, mặt áo hoa xanh đến gần mộ (Tôi thật không hiểu anh làm cách nào mà điều được cho tôi một cô bé đến vào ngày đó, giờ đó) rồi anh dặn: Nếu anh đến sớm thì năm cây cỏ dại có 10 bông hoa tím, nếu anh đến muộn thì chỉ còn 5 bông.

Ngạc nhiên quá tôi hỏi anh: Anh không biết gì về vùng đất đó cả, vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ ra tấm bản đồ chi tiết như vậy?
Anh nói: Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế nấy tôi cũng chẳng hiểu nữa.

Tôi lại hỏi: Còn những tên người kia? Tại sao gọi là đất cô Nhường, là quán ông An?

Anh nói: Tôi thấy trong tai tôi như có âm thanh ấy có thể là Nhương, Nhường, Nhượng gì đó, cũng có thể là 47 tuổi hay 87 tuổi. Còn An thì cũng có thể là Am. Anh còn dặn thêm: Có thể phải xem cái bản đồ này từ âm bản. Lời dặn này, lúc ấy tôi không để ý lắm.

Vẽ bản đồ trao đổi trong vòng nửa tiếng xong, anh Nhã chia tay tôi, để vội vã bay về thành phố Hồ Chí Minh, nơi anh đang phải điều hành một công ty tư vấn.

Về phần tôi, tin hay không tin thì vẫn phải làm theo chỉ dẫn của anh. Còn có cách nào khác đâu?

Tìm mộ ngày thứ nhất.

Ðúng hẹn ngày 28 tháng 7 cả gia đình tôi phóng về bến đò La Tiến, cách Hà Nội chừng 100 km. Chúng tôi chia nhau làm nhiều ngả, đối chiếu vối bản đồ mà tìm. Tất cả các ngả đều không tìm được những dấu hiệu khớp với bản đồ, trừ một ngả hướng thẳng vào giữa làng La Tiến, hướng này do anh Ðạt, một cán bộ về hưu có cái quán giải khát ở bến đò, chỉ dẫn. Khi xem bản đồ, cụ Yến, cũng đang ngồi ở quán giải khát nói: Cái bản đồ này vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi, có mấy đoạn đã được nắn lại. Tuy nhiên, đường từ bến đò đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn, chỉ bằng một phần ba cự ly ghi trong bản đồ. Tôi dùng điện thoại di động hỏi anh Nhã, anh trả lời: Miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi, nhất là 4 dấu hiệu nơi phần mộ, còn cự ly thì có thể là do anh ước lượng không chính xác.

Lần theo hướng ghi trên bản đồ và các dấu hiệu trên đường (trường học, đình, quán tạp hóa có cửa màu xanh nước biển, đến ngã tư rẽ phải, rồi rẽ trái, rồi lại rẽ phải, tất cả đều đúng) chúng tôi đến đất nhà anh Ðiển, một nông dân kiêm thợ nề trên 60 tuổi. Cả hai vợ chồng đều gầy gò ốm yếu nhưng tốt bụng. Ông bà sẵn sàng cho chúng tôi tìm bới hài cốt liệt sĩ, mặc dù không tin rằng đất trong đê lại có thể có hài cốt liệt sĩ. Ông bà Ðiển cũng như nhiều người khác đều chỉ chúng tôi ra dải đất bãi phía ngoài đê, cạnh Vụng Quạ (gọi thế là vì có nhiều quạ bay tới Vụng để ăn xác chết bị cuốn vào Vụng) mà từ nhà ông Ðiển nhìn ra thì về hướng Ðông, chưa đến nửa cây số; cạnh Vụng Quạ vẫn còn ba cái mộ vô thừa nhận. Chúng tôi đến đó xem xét rất kỹ, nhưng không thấy một dấu hiệu nào như anh Nhã đã cho, đành quay về nhà ông Ðiển, theo đúng bản đồ.

Giữa mảnh đất rộng chừng hai sào có một ngôi nhà gạch hướng Ðông Nam, trước nhà là sân gạch tường hoa, một dải vườn đẹp lơ thơ mấy vạt dây lang rồi đến một cái ao to, tiếp đó là đường làng, một cái đầm sen mênh mông, rồi đến con đê sông Luộc chạy dài từ tây sang đông. Sau nhà là một vườn chuối được dọn sạch sẽ, không một ngọn cỏ. Ðầu hồi phía đông là đường vào ngôi nhà. Vậy chỉ còn tìm kiếm ở đầu hồi phía tây. Vườn ở phía này rộng, trồng táo và mít um tùm, dưới gốc đầy cỏ dại, toàn một loại có hoa bằng hạt thóc, màu tím nhạt. Tìm một ngàn cây thì được, chứ tìm 5 cây thì biết chọn cây nào? Còn cành cây khô và và mảnh gạch vỡ thì bừa bãi, đâu cũng có. Sục tìm một hồi lâu, chúng tôi đành thất vọng quay ra.
Ðứng trước cửa nhà, nhìn về chân đê sông Luộc, chệch về phía tây, là ngôi nhà của anh An, 45 tuồi. Nhà xây bằng gạch để ở, chứ không bày biện như một quán hàng. Anh cho biết vợ anh có một gian quán bán lòng lợn ở chợ La Tiến, hàng ngày gánh hàng đến đó, nhưng có ai cần mua tại nhà thì vẫn dành lại để bán. Như vậy thì nhà anh có đáng gọi là một quán hàng không? Tôi phân vân nhưng cứ tạm cho là được đi.

Còn đất bà Nhường? Cả làng không có ai tên là Nhường hay Nhượng. Chỉ có một bà tên là Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà này thì tôi biết vì cùng hoạt động với em gái tôi. Chính bà mấy năm trước, thông qua bà Tiến, đã nhắn tôi về nhận một bộ hài cốt vô thừa nhận mà căn cứ vào hàm răng trắng, bà cho là hài cốt của cô Khang.

Dấu hiệu dẫn đến ngôi mộ thì có đủ, nhưng dấu hiệu của chính ngôi mộ thì không thấy. Tôi đành chờ đến 13h30. Vào giờ này, giữa trưa hè oi ả, giữa cái làng hẻo lánh giáp đê sông Luộc này thì kiếm đâu ra một bé gái mặt áo hoa xanh? Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn chia nhau đón các ngả đường dẫn đến nhà ông Ðiển. Ðường sá vắng tanh. Cả vùng như ngừng thở với ánh nắng chói chang.

Quá 10 phút rồi 15 phút. Bỗng một tốp thiếu niên ồn ào đạp xe từ cuối làng tới. Nhưng tất cả đều là con trai. Mấy phút sau, có một tốp con gái cũng từ cuối làng đi bộ tới. Chúng tôi giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần ngã tư, sau cái đình. 3 em xăng xái dẫn chú em tôi tới đó, còn một em không muốn mà đứng lại. Em mặc áo màu xanh lá cây, có hai bông hoa to in trước ngực em khai tuổi 15, nhưng vóc người thì nhỏ hơn tuổi. Hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận, em chỉ mấy ngôi ở vườn chùa ngay cạnh đó đây là mộ của những người chết đói năm 45. Em lại chỉ 3 ngôi mộ ở phía ngoài đê, cạnh Vụng Quạ, chúng tôi đã đến đó vào sáng nay. Em đứng lại với chúng tôi chừng nửa tiếng bên bờ cái ao to trước nhà ông Ðiển mà không có mục đích gì cả, phải chăng đó là tín hiệu mà ông Nhã điều cho tôi? Nhưng khai thác được gì ở em thì không được gì cả.

Xế chiều gần như mất phương hướng, tôi lại gọi điện cho anh Nhã. Anh hỏi: Có thấy cái lạch nước không? Có thấy cái cống không? (dường như từ Sài Gòn, anh nhìn thấy những cái đó!) rồi anh bảo tôi đi tìm ngôi nhà mà 4 mặt đều sơn màu trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ.

Cái cống lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, kế nhà ông Ðiển, thì chính tôi đã ngồi trên đó để hỏi chuyện bé gái. Còn cái lạch nước, hỏi ông Ðiển hồi lâu mới biết: Ba chục năm trước đây, chính cái đầm sen là một vùng ruộng trũng ở giữa có một con đường bờ vùng chạy song song với một con lạch, dẫn nước qua cống của chùa vào vùng ruộng mạ mà nay là đất ở của ông và mấy nhà xung quanh. Cuối những năm 60, để lấy đất bồi đắp con đê sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng trũng thành cái đầm sen bây giờ, nó chạy dài gần một cây số ven đê và ruộng vài trăm mét. Con đường và cái lạch nước cũng biến mất trong lòng cái đầm sen ấy.

Chúng tôi ngó nghiêng khắp làng để tìm ngôi nhà mà 4 mặt đều sơn màu trắng lốp. Chẳng có cái nào cả, mọi nhà đều quét vôi vàng hoặc xám. Bỗng anh Tân Cương (một cọng sự của tôi đã từng nhiều lần đi tìm mộ) chỉ vào cái quán bên đường: Hay là cái này? Ðó là cái quán nước mà chúng tôi vẫn qua lại từ sáng đến giờ. Quán nhỏ và thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê một cái giường và một cái chõng bày bán mấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây, cả bốn mặt điều quét vôi trắng xóa. Một cái quán nhỏ cũng có thể xem là một cái nhà được chứ? Tạm cho là như vậy. Nhưng còn hoa đỏ? Tìm tòi hồi lâu, anh Tân Cương chỉ cho tôi cái đầm sen trước mặt. Giữa mùa hè, đầm sen là cả một biển hoa đỏ có thể là như vậy chăng?

Chủ quán là một bà lão hom hem. Nhà cụ giáp nhà ông Ðiển về phía tây, Cụ xây cái quán ngay cạnh đường làng, lối đi vào nhà cụ mà cũng là cái bờ ao nhà ông Ðiển. Hỏi tên tuổi thì cụ cho biết tên là Mân đó là tên chồng, còn tên thật của cụ là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuồi.

Sục sạo đến tối mịt, chúng tôi đành quay về Hà Nội. Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Cự ly so với bến đò có gần hơn, không sao. Có trường học, có ngã tư, có quán màu xanh dương, có cái đình rồi. Có cái cống không? (tôi báo cáo cho anh biết kết quả điều tra được).

Anh động viên: Nên tìm kiếm liên tục. Hôm nay chưa thấy thì ngày mai lại đi. Chỉnh mộ là một quá trình vất vả lắm đấy, không thể một lần mà trúng ngay được. Rồi anh chỉ dẫn cho tôi ngày mai làm gì:

- Tám giờ sáng phải có mặt ở cái quán trắng. Tôi hoặc con tôi (phải là người ruột thịt của cô Khang) thắp 20 nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8 giờ rưỡi, có một con chó vàng nâu đến cách đó chừng 10 mét, nó nhìn mình xem mình có đi theo nó không, hãy đi theo nó, giữ một khoảng cách. Nó sẽ đi hơn 100m, rồi dừng lại, ngửi và bới. Nhớ lấy chỗ đó, rồi quan sát, tìm những dấu hiệu phần mộ như đã ghi trên bản đồ. Nếu tín hiệu trên không xuất hiện thì chờ đến 8giờ30 - 9giờ tìm kiếm quanh vùng sẽ thấy một con chó vàng nằm một chỗ như ốm. Ðánh dấu lấy chỗ đó mà đào. Ðào thấy thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì gọi điện lại để anh chỉ dẫn tiếp.

Tìm mộ ngày thứ hai.

Chúng tôi lại đến làng La Tiến, làm đúng những việc mà anh Nhã dặn. Chúng tôi chia nhau đi các ngả để xem có con chó vàng nâu nào tiến về phía quán trắng không. Quá 8giờ30 mà không thấy tín hiệu thứ nhất xuất hiện, chúng tôi bèn chia nhau đến các nhà quanh vùng. Nhà nào cũng nuôi chó vàng, thấy người lạ vào là chúng nhảy ra sủa inh ỏi, không có con nào nằm một chỗ như ốm. Cô em tôi mấy lần vào ra nhà cụ Nhờ, ngó nghiêng mọi xó xỉnh cuối cùng, cô phát hiện thấy phía sâu bên trong gian nhà phụ, dưới gậm giường, có một con chó vàng nằm ệp. Chúng tôi lần lượt vào ngó, nhưng nó vẫn nằm im, chỉ ngước nhìn mà không sủa. Hỏi chủ nhà thì biết nó chửa, chê cơm mấy hôm nay. Tôi liền điện cho anh Nhã. Anh bảo: Tìm kiếm trong vòng bán kính 10 mét xem có những dấu hiệu phần mộ không.

Từ chỗ con chó nằm, tôi vạch một vòng tròn có bán kính 10 mét. Hầu hết vòng tròn bao lấy nhà và sân gạch của cụ Nhờ, chỉ một mẩu nhỏ lấn sang dải vườn hẹp trước tường hoa nhà ông Ðiển. Dải vườn này, hôm trước chúng tôi đã đi qua mà không thèm để ý đến mấy vạt rau lang. Hôm nay tập trung vào một diện tích hẹp, anh Tân Cương là người đầu tiên phát hiện ra một gốc cây đổ vùi lấp dưới lớp dây lang, gốc cây to bằng bắp chân, dài hơn gang tay, nằm sát đất, trên thân cây lơ thơ mấy cái chồi cằn cỗi. Ông Ðiển cho biết đó là cây nhót mà ông đã chặt đi năm ngoái, nhưng chưa kịp đánh gốc. Cách gốc cây nhót về hướng đông chừng hai mét, chúng tôi thấy ngay nửa viên gạch vỡ màu nâu đỏ nằm cạnh một cành cây khô to bằng cổ tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về hướng Ðông chừng 3 mét nữa, dưới tán cây cam thấp lùn, chúng tôi reo lên khi thấy cả một dảy cây hoa màu tím nhạt vượt lên đám rau lang, đếm được đúng 5 gốc mỗi gốc mang hai bông hoa to và dài bằng ngón tay. Cây hoa mọc theo một đường thẳng dài 3 mét từ tường hoa ra phía bờ ao. Ông Ðiển cho biết mấy năm trước ông trồng làm cảnh, sau chán, vất ra vườn.

Sau khi soát xét lại kỹ càng, tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Từ gốc cây đổ đến dãy hoa tím, vẽ thành hình tam giác, rồi đứng vào giữa, đánh dấu lại. Lấy một chiếc đũa cắm vào chỗ đó, rồi tự tay tôi (phải là người ruột thịt) đặt một quả trứng lên đỉnh chiếc đũa, nếu quả trứng nằm im là đúng. Nếu quả trứng không nằm im thì cắm chiếc đũa lùi ra nửa mét.

Bà Ðiển vội vã rút từ ống đũa cho tôi một chiếc, rồi chạy vào ổ gà lấy quả trứng mới đẻ. Nhìn chiếc đũa tre còn mới, tôi thầm nghĩ: Nghèo quá, đến chiếc đũa tre cũng khẳng khiu! Với chiếc đũa này, lão Nhã đánh đố mình dây. Rồi tôi suy luận: Chẳng lẽ xác cô em mình lại có sức hút mạnh hơn trọng lực trái đất ư? Vấn đề chỉ là ở chỗ ngắm cho thật cân, và không được xúc động!

Tôi loay hoay mãi với quả trứng. Ngắm nghía thật lâu rồi mới đặt xuống nhiều lần như vậy. Ðặt nằm rồi lại đặt đứng. Nó vẫn lăn bo lo xuống đất. Người tôi vã mồ hôi. Mấy chục người xung quanh dán mắt vào quả trứng như nín thở, tôi nghĩ chỉ tại cái đũa chết tiệt! Tiết diện nhỏ quá mà lại không phẳng tài gì mà đặt được quả trứng cho cân!

Tôi bèn lùi lại nửa mét, mặt vẫn hướng vào tường hoa. Cấm chiếc đũa thật thẳng rồi nhẹ nhàng đặt quả trứng xuống như mọi lần. Kỳ lạ quá, nó nằm im trên đầu đũa, tựa như có chất keo gắn vào đầu đũa. Tôi không tin có sự can thiệp của cô em tôi (vì làm gì có linh hồn mà can thiệp? Mà nếu có thì linh hồn đâu phải là một lực tác động vật chất?) nhưng vẫn thở phào nhẹ nhõm vì nếu không qua được thử thách này thì không thể đi tiếp bước sau.

Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Lấy quả trứng làm tâm, vẽ một hình chữ nhật dài 2 mét, rộng 1 mét 2 rồi đào sâu xuống 1 mét 5 cho đến lớp cát đen. Hài cốt không nằm sâu hơn lớp cát đen đó.

Lúc ấy đã gần trưa. Chúng tôi tạm nghỉ, ra bến đò La Tiến ăn cơm hàng. Trời đang nắng gắt bỗng ập xuống một cơn mưa như trút nước kèm theo gió to kéo dài gần một tiếng. Chúng tôi bảo nhau phen này thì đền quả trứng của bà Ðiển thì cái chắc. Khi quay về thì lạ quá, quả trứng vẫn yên vị trên đầu chiếc đũa chẳng lẽ khi mưa, bao giờ cũng có hai giọt nước rơi cân bằng xuống hai đầu quả trứng? Còn gió to nữa, chẳng lẽ nó không tác động gì đến quả trừng?

Ðể chuẩn bị cho thợ đào đất, tôi gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa hai tay tôi cảm nhận thấy một sức hút nhẹ. Phải chăng nước mưa đã làm giãn hở vỏ trứng và chiếc đũa tre, khiến cho quả trứng gắn chặt vào đầu đũa?

Hai tốp thợ thay nhau đào. Sâu 1,2 mét thì hết lớp đất màu nâu là lớp vượt thổ , đến lớp bùn đen pha cát, vừa đào, chúng tôi vừa soát xét từng xẻng đất đào lên xem có hài cốt không? Ðến độ sâu 1,5 mét vẫn không thấy gì cả.

Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Phát triển về hướng Nam và đào sâu thêm 4 tấc nữa. Chiều rộng của cái hố được mở thêm nửa mét ra phía bờ ao và đến tối mịt thì chiều sâu đạt tới 2,8 mét. Vẫn không thấy gì cả. Chúng tôi quay về Hà Nội.

Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Thử đào sâu thêm vài tấc nữa. Thực ra thì cái hố đã được đào sâu quá mức ấy rồi. Tôi cảm thấy "Thầy" đã hết phép. Mặc dù vậy, tôi vẫn quyết định ngày mai đi tiếp.

Tìm mộ ngày thứ ba.

Qua hai ngày, dậy từ bốn giờ sáng, mãi 11 giờ khuya mới về đến nhà, cái tuổi 72 của tôi đã cảm thấy đuối sức. Tôi ủy nhiệm cho các con cùng bà chị tôi và anh Tân Cương đi tiếp. Tôi dặn: Không đào sâu thêm nữa làm gì, chỉ soát lại đống cát đen đào xới lên, họa may tìm thấy mảnh hài cốt nào thì đem về, nếu không thì thu dọn chiến trường mà về. Họ làm đúng như thế.

Thấy chúng tôi không thu được kết quả gì, nhiều cụ già, nhất là các cụ về hưu, xúm lại bài bác: Ðã bảo mà! Tìm ở ngoài đê, quanh cái Vụng Quạ thì không, lại đi tìm ở trong đê! Làm gì có xác trôi sông vượt qua được con đê để vào tận trong đồng! Chị Tiến và chị Nhương cũng có mặt, hai chị khuyên chúng tôi nhận lấy bộ hoài cốt răng trắng chôn ở gốc đa phía trên bến đò. Duy có anh Thìn, con cụ Giám, hiện là hiệu Trưởng trường cấp hai, thì nói: Bố anh hồi ấy có vớt được ba cái xác hai nữ một nam, kéo qua đê, rồi chôn ở cánh đồng này. Cụ Giám, theo dân làng nói, là người rất nghèo (làm nghề đơm gió và đánh dậm) nhưng bạo gan, nhà ai có việc đào huyệt, bốc mộ thì đều nhờ đến cụ, cả những cháu bé bị chết, cụ cũng sẵn sàng vác lên vai đem đi chôn giúp. Từ hồi kháng chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở Vụng Quạ, làng cũng giao cho cụ vớt lên chôn cất. Cụ Yền xác nhận rằng cụ Giám được làng phụ cấp để làm việc đó, nếu có xác chết chôn ở đây thì chỉ là nhờ tay cụ Giám thôi. Cụ Trọng thì nhất quyết bài bác: Làm gì có chuyện đó! Anh Thìn đưa ra thông tin trên là đưa vào tiết lộ của cụ Giám, nhưng cụ Giám thì mất cách đây 18 năm. Hồi còn sống, cụ đã được tặng bằng khen vì những thành tích trong kháng chiến chống Pháp.

Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh nói: Nghe gia đình đã báo cáo tìm thấy đủ các dấu hiệu thì tôi cũng tin, tuy rằng cự ly có phần không đúng. Bây giờ thì phải lật cái bản đồ mà xem từ âm bản. Tôi hỏi: Như vậy có nghĩa là phần mộ sẽ nằm ở bên kia sông, tức là trên đất Thái Bình? Anh nói : Phải vậy đó. Rồi anh dặn tiếp: Phải tìm đến một cái vụng xoáy, một cái vụng do nước xoáy vào bãi sông mà tạo thành, ở đó có một xóm mới, dân mới ra ở đó khoảng hai chục năm, trong đó có cô Nhường, có ông An. Mộ nằm trên đất cô Nhường, trên mộ vẫn những dấu hiệu như đã chỉ.

Tìm mộ ngày thứ tư và thứ năm.

Các con tôi, vốn đã không tin vào phương pháp thần bí, đều không muốn đi tiếp. Các lão già (chị và các em tôi) thì đều đã mệt mỏi. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững lòng tin, vì chính anh đã nhờ vào các nhà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên. Anh nhận giúp tôi tìm kiếm tiếp. Anh cùng anh Ðạt vượt bến đò La Tiến sang đất Thái Bình, đi dọc sông để tìm cái vụng xoáy, chốc chốc lại gọi điện thoại di động về. Xế chiều, cách bến đò La Tiến chừng 8 cây số, một cụ già bảo anh: Phía Thái Bình không có vụng xoáy đâu. Vì nước sông ở đoạn này quật sang đất Hưng Yên. Cụ chỉ sang vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. Gọi thế là vì bà Khán Mỹ nhiều năm sinh sống trên vụng đó bằng thuyền đánh cá. Vậy là lại phải qua sông để trở về đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên đất bãi có một xóm mới, trong đó có một chị tên là Nhường, có một anh tên là An có mấy ngôi mộ vô thừa nhận, nhưng chẳng có dấu hiệu nào khớp với bản đồ mà anh Nhã đã cho.

Anh Tân Cương đi tiếp một ngày nữa, từ vụng bà Khán Mỹ ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ vô thừa nhận là anh đến. Nhưng chẳng đâu tìm thấy đủ những dấu hiệu mà anh Nhã cho.

Cuộc tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây xem như tắc ty. Cái tính hoài nghi khoa học vốn có của tôi trỗi dậy. Tôi nghĩ: Lão Nhã này, hắn đánh giố mình! Hắn bày ra cả một "trận đồ bát quái", nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người và tên đất, rồi bảo mình phải đi tìm cho đủ. Lục tìm cả cái đất nước này, chưa chắc đã có nơi nào khớp được với cái trận đồ bát quái của hắn!
Nghĩ thế rồi tự trách mình là vô lý. Ðã chấp nhận đi theo Thầy Nhã mà tỷ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì lý gì lại thắc mắc khi trường hợp của mình rơi vào 40% kia? Ðã chấp nhận tìm đến con đường thần bí như nguồn hy vọng cuối cùng thì lý gì lại đòi hỏi phải lý giải cái trận đồ bát quái kia?

GỌI HỒN

Theo đuổi nhà ngoại cảm nổi tiếng đã vẽ trúng hàng trăm ngôi mộ liệt sĩ, nhưng đến lượt mình thì không có duyên, tôi bàn với anh Tân Cương chỉ còn cách là tìm đến những người có khả năng gọi hồn. Theo tin của anh thì cô Phan Thị Bích Hằng đã mất năng lực đó vài năm nay rồi, anh đang giúp tôi liên hệ với một bà ở Cẩm Giang và một bà ở Hải Phòng. Chị Tuyết Nga cũng khuyên tôi tìm kiếm theo hướng đó. Chị cho tôi một địa chỉ điện thoại mà điều tra ra thì đó chính là địa chỉ của cô Bích Hằng. Trong quá trình tìm mộ, tôi thường hay kể lại với bạn bè khi rảnh rỗi. Tình cờ một hôm, anh Trần Công Bảy biết tôi có ý định gọi hồn, liền nhận giúp tôi liên hệ với cô Bích Hằng. Cô nhận giúp tôi vào chiều ngay 9/8/1999


Ngày 9/8/1999: Tiếp xúc với linh hồn.

Qua cô Bích Hằng, tôi hy vọng có được thông tin về phần mộ em tôi, nhưng điều còn quan trọng hơn là: Kiểm nghiệm xem có thật linh hồn còn tồn tại sau khi người ta chết không. Tôi lục tìm trong trí nhớ những vụ việc mà chỉ tôi và em tôi biết, để kiểm tra xem có thật là linh hồn em tôi đang nói với tôi không. Dự gọi hồn có chị tôi và em gái tôi, nhưng tôi dặn không ai được nói, đề phòng hớ hênh, để lộ thông tin cho thầy bói nói dựa.

Bích Hằng là một cô gái nhỏ nhắn, xinh đẹp và thùy mị, năm nay 27 tuổi tốt nghiệp đại học kinh tế quốc dân, hiện đang làm kế toán cho một công ty xây dựng của quân đội, đồng thời vẫn theo học lớp đào tạo Thạc Sĩ Quản Lý Kinh Doanh do trường đại học Oxtord (Anh) tổ chức tại Hà Nội.

Tôi hỏi: "Cháu có khả năng đặc biệt từ bao giờ?"

Cô nói: "Từ khi còn đang học phổ thông, sau khi bị chó dại cắn, lên cơn nhưng không chết. Cô bạn cháu cùng bị chó dại cắn thì chết. Một hôm, giỗ bà nội, cháu nhìn lên bàn thờ thấy bà ngồi cùng hai đứa bé. Cháu hỏi ông nội: Hai cậu bé ngồi cùng bà nội kia là ai? Sau một hồi kinh ngạc, ông nội giải thích: Người con thứ nhất của bà được hơn một tuổi thì chết, người con thứ ba sau bố cháu được hơn hai tuổi cũng chết. Từ đó trở đi, khi qua nghĩa địa, cháu nhìn thấy vô số là vong hồn người nằm, người đứng, khi tỏ khi mờ giống như nhìn vào cái màn hình bị nhiễu. Mới đầu thì rất sợï, sau cũng quen dần đi."

Tôi lại hỏi: "Có tin nói: Khả năng đặc biệt của cháu suy giảm rồi, có đúng không?"

Cô trả lời: "Khi cháu có bầu và sinh con, cháu phải lấy cớ đó để từ chối. Bây giờ con cháu đã 14 tháng, cháu mới nhận giúp bác".

Khác với anh Nhã, cháu Hằng yêu cầu đặt lên một cốc nước, một cốc gạo để cắm hương, một ngọn nến và một bức ảnh của cô Khang theo cháu nói là để nhận diện vong hồn được triệu về có đúng là cô không. Cháu mang theo một xấp giấy tiền đặt lên bàn. Thắp hương và đốt nến xong, cháu khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ, tưởng chừng như cô đang ngồi trước mặt.

Rồi quay sang nói với tôi: "Ở căn phòng này, bác không thờ bao giờ, có thể là khó về".

Nghe Hằng nói, tôi đâm lo. Chẳng những không thờ bao giờ mà 10 năm nay tôi không ở nhà này, tôi giao cho con. Nhìn quanh cửa kính đóng kín mít (dễ mở máy điều hòa nhiệt độ) thì mùi hương bay đi đâu mà cô em tôi nhận biết được? Cháu Hằng có lời mời nhưng cô ở đâu mà nghe thấy được? Nếu nghe thấy thì tìm sao nổi đến địa chỉ này giữa cái thành phố ồn ào bát ngát? Nếu tìm thấy địa chỉ thì lách qua kẽ hở nào mà vào được?

Một phút chờ đợi căng thẳng trôi qua. Cháu Hằng vẫn dán mắt vào tấm ảnh. Rồi hai phút, rồi ba phút. Bỗng cháu Hằng hớn hở: "Cháu chào cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi cô hài cốt của cô hiện nay ở đâu?"

Rồi Hằng vội quay sang tôi, hạ giọng nói: "Có một người đàn ông, thanh niên đi cùng với cô." Tôi ngồi im, cố đoán xem người đó là ai.

Cháu Hằng vẫn châm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại vâng à , à, thế ạ! à, cái gì ngân, cô Ngân hay là cái gì?

Qua phiên dịch của cháu Hằng, cô Khang nói: "Người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Anh vẫn thường xuyên đến gặp em (Anh Sơn thật ư? Người anh, người bạn và người đồng chí thân thiết nhất của tôi! Tôi muốn reo lên, gọi thật to tên anh. Nhưng tôi cố nén mình lại, chờ xem sao).

Anh không có duyên rồi, anh đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến được với em. Từ hôm anh đến mấy chị với em trong đội Hoàng Ngân của em cứ bảo sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm chỉ cách chỗ anh đào 3 bước chân xoải dài ra phía bờ ao (tôi hỏi: Vậy em nằm trên vườn hay dưới ao?). Ðến bờ ao cũng còn ba bước chân nữa. Phía trên em chừng 2 mét là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội nữ du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cách chỗ em nằm cũng chừng hai mét về phía Ðông là một nam, bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên. 3 cái mộ gần như nằm trên một đường thẳng. Hai người kia cùng bị giết một ngày với em. Chúng cột tay ba người lại với nhau rồi vất xuống sông vào nửa đêm. Dân Phòng ta có đi tìm nhưng không thấy. Mãi mấy ngày sau, xác mới nổi lên, Dân vớt được - thực ra, dân cũng là dân phòng giả dạng thôi - đưa về đây chôn, vì thế mà ba cái mộ sát gần nhau. Xa hơn, còn mấy người nữa. Chỗ này còn có cả thẩy bảy người cơ. Mấy người nổi lên trước thì dân còn cho được manh chiếu. Còn nổi lên sau thì đến manh chiếu cũng không có, nói gì đến quan tài! (vì cháu Hằng hỏi: "Chôn cô có quan tài không?").

Rồi cô chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm, với các đặc điểm cây cỏ xung quanh, bắt đầu từ cây nhãn ở góc vườn mà tôi nhận ra ngay. Ðó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, tôi đã ngồi ở đó để theo dõi việc đào mộ.

Tôi hỏi: "Em có biết chỗ em nằm thuộc về đất của ai không? Của bà nào không?"

Cô đáp: "Em cũng không biết nữa."

Tôi đưa tấm ảnh anh Sơn cho cháu Hằng. Cháu Hằng xem ảnh, bảo đúng, nhưng trông bác già hơn và gầy hơn trong ảnh. Thực vậy, bức ảnh chụp năm 1948, trong tư thế rất bảnh trai, khi anh tôi đang công tác ở Sơn Tây.

Anh Sơn nói: "Chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu." (Tôi xin lỗi anh. Nhưng trong bụng vẫn nghĩ: Oan em quá, em đâu có biết anh còn tồn tại?) "Lần sau, chú báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Người trên này có tâm đấy, nhưng mò kim đáy biển, biết chỗ nào mà đào? Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong lại, xác em mình mới dạt vào, nếu không thì đã trôi tuột đi rồi. Mẹ thì khóc thương em nhiều lắm, cứ muốn em về bên mẹ để mẹ ôm ấp. Còn anh thì anh khuyên em về nghĩa trang liệt sĩ. Vì đấy là vinh dự của em mình, của gia đình mình cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời người ta thắp hương cho mình, chứ đâu chỉ con cháu trong gia đình mình. Vả lại đời anh chị em mình đã vậy, chứ đến đời thằng An thì nó còn biết gì! (Tôi giật mình, vì thằng An chính là con tôi, 10 năm sau khi anh hy sinh, nó mới ra đời). Hôm nào khi đưa em Khang về nghĩa trang liệt sĩ, chú cũng cần nói lại với bố mẹ như thế".
"Hôm chú đi tìm mộ em Khang, anh cũng có theo dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp đất nguyên thủy. Em mình đâu có nằm sâu đến thế. Chỉ hơn một mét là đến lớp cát đen rồi. Em mình cũng chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào đất đánh gãy vất lại đó, vô tình như đánh dấu cho mình."

Bỗng cháu Hằng nói như ra lệnh: "Pha chén nước chè!"

Tôi hỏi nhỏ cháu sao lại làm như vậy?

Hằng nói Bác Sơn bảo: "Nói chuyện khan thế này thôi à?"

Cháu Hùng đứng dậy đi ra ngoài, rồi lại vào ngồi cạnh tôi. Một lát cháu đứng dậy đi ra cửa, đỡ lấy hai chén trà nóng đặt lên bàn.

Cháu Hằng quay sang tôi nói: "Bác Sơn bảo: Ơ kìa, cái thằng An! Nó vào mà không chào bác."

Cháu Hằng và tôi đều ngồi quay lưng ra cửa, không để ý ai đã hé cửa đưa chén trà cho Hùng. Sau mới biết là cháu An, nó vừa đi làm về.

Bác Sơn nói tiếp: "Các cháu học sinh nó không biết đấy thôi. Người âm không giúp được gì nhiều, nhưng cũng có lúc đỡ được. Có lần, chỉ cần anh đến chậm một tý thì cháu Trang đã gặp nguy hiểm rồi (Tôi kinh ngạc khi anh nhắc đến tên cháu Trang con của An).

Tôi hỏi: "Anh bảo sẽ dẫn đường cho em, làm cách nào mà em nhận biết được?"

Anh nói : "Anh không thể nắm tay chú, nhưng anh sẽ tìm con vật nào đấy: con ong, con bướm chẳng hạn, sai khiến nó để nó dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm là khó đấy, nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật chú gọi nó lại, rồi đi theo nó đến chỗ nó đậu."

Một lúc lâu cháu Hằng không dịch, mà trao đổi gì đó. Tôi chỉ nghe cháu nói "Cháu còn con nhỏ. Vâng, cháu sẽ cố." Sau này hỏi lại, Hằng nói: "Cô Khang cứ thuyết phục cháu đi đến mộ để cô nói với cháu, chỉ cho cháu đúng chỗ cô nằm, kẻo lại đào chệch như lần trước. Bác Sơn cũng dỗ cháu. Bác bảo: Chú Phương chú ấy quen tác phong chỉ huy, ra lệnh. Còn bác thì bác nhờ cháu. Bác Sơn bác ấy vui tính lắm. Hễ bác nói là thấy không khí vui vẻ, phấn khởi ngay. Còn cô Khang thì có vẻ hơi buồn."

Cháu Hằng lại hỏi: "Bác Phương muốn biết chính xác ngày giỗ của cô. Bác ấy chỉ biết vào khoảng 20 tháng sáu dương lịch."
Rồi Hằng nói tiếp: "Cô cười bảo: Ðối với anh Phương thì ngày nào mà giỗ chẳng được. Em bị chúng nó bắt, có được bóc lịch đâu mà biết ngày. Chỉ nhớ một hôm, khoảng 18 hay 19 gì đó, thằng quan tư bảo "Bọn mày cứng đầu! Ðến ngày 24 mà không khai thì bắn bỏ". Anh cứ lấy ngày ấy là được. Còn ngày âm lịch em không biết là ngày nào."

Anh Sơn bổ sung: "Cứ qua ngày giết sâu bọ là em Khang lại bảo anh: Sắp đến ngày giỗ em rồi đấy." (Sau này tôi tra lịch thì biết: ngày 24/6/1950 là ngày mùng mười tháng năm âm lịch).
Rồi anh nói tiếp: "Hôm nào đi tìm mộ em Khang, các cô kiếm lấy ít hoa quả, thắp hương mời chị em. Người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em mình thì người ta cũng tủi, phía trên mộ cô Khang là mộ một chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương (cô Khang nhắc: chị Nguyễn thị Bê) nên báo cho gia đình chị ấy biết mà đến tìm. Chú Phương kiếm cho anh mấy bao (cháu Hằng nói: Bao gì ạ.......à vâng) bao thuốc Cáp tăng để anh mời anh em. Bây giờ anh cũng chỉ huy cả trung đoàn đấy.

Bỗng cháu Hằng nói như ra lệnh: "Ðốt tiền đi! Sắp đi rồi đấy."
Tôi hỏi nhỏ cháu: "Sao lại làm vậy?". Cháu nói Bác Sơn bảo.
Chúng tôi vội hỏi đôi điều về đời sống của anh tôi và em tôi. Cô Khang nói: "Có lần em về thăm chị Nghĩa, chỉ đứng ngoài mà không vào được" (chị Nghĩa là chị lớn nhất nhà của chúng tôi). Anh Sơn nói: "Em bị chết trôi sông, đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ nào cũng đòi vào. Bận sau đi với anh. Bây giờ công việc ở đây đã xong, đi với anh đến nhà Quỳnh chơi." (Quỳnh là em út của chúng tôi. Tuy là út, nhưng cũng đã thành một "ông lão" ngoại 60 rồi. Chỉ riêng cách xưng hô đó cũng đã nói lên vị thế và tình cảm của người anh cả đối với thằng em út).

Nói rồi, biến mất. Cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa hết.
Sau đó tôi nghe lại băng ghi âm nhiều lần. Quả thật lại có quá nhiều điều bí ẩn do chính anh tôi nói ra mà tôi không kịp hỏi lại. Nhưng, qua những tên người trong gia đình được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự hiểu biết về tính cách từng người còn sống, cách xử sự và tâm tư tình cảm của người nói, tôi nhận ra đúng là anh tôi và em tôi. Người khác, dù biết rõ gia đình tôi đến mấy, cũng không thể sáng tác ra một kịch bản như thế, huống hồ là cháu Hằng, một người mà tôi vừa mới gặp lần đầu. Cháu chỉ đơn thuần đóng vai người phiên dịch, chăm chú lắng nghe, hỏi lại cho đúng rồi nói lại. Cháu hỏi han, vâng dạ, trao đổi với người chết cứ như nói chuyện với người sống đang ngồi trước mặt, hoàn toàn không phải là một cô đồng nửa tỉnh nửa mê.

Nếu thừa nhận người đang nói đúng là anh tôi và em tôi thì không thể không thừa nhận. Sau khi người ta chết đi, vẫn còn lại một cái gì đó mà ta quen gọi là linh hồn. Nhưng linh hồn là gì? Tôi tự hỏi. Nó phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó thì cháu Hằng mới nhìn thấy và nhận diện được qua tấm ảnh. Nó phải phát ra tiếng nói qua một tần số nào đó thì cháu Hằng mới nghe thấy mà nói lại cho tôi. Ðối với tôi nó là vô hình, nhưng đối với cháu Hằng thì nó lại là hữu hình. Ðối với tôi nó là câm lặng, nhưng đối với cháu Hằng thì nó lại phát ra những âm thanh có thể nghe thấy, những âm thanh này chuyển tải đủ cả những sắc thái sống động của tình cảm, của tư duy, hệt như tiếng nói của người sống vậy.

Nếu linh hồn đã là một dạng vật chất có hình thù và khả năng phát ra âm thanh thì theo cách nói của triết học linh hồn thuộc phạm trù tồn tại mang tính khách quan, chứ không thuộc phạm trù ý thức mang tính chủ quan. Nhận biết nó hay không nhận biết được nó, là tùy ở khả năng của từng người. Cháu Hằng có khả năng nhận biết được nó. Còn tôi thì không. Nhưng đâu phải vì tôi không có khả năng nhận biết được nó mà tôi có quyền phủ nhận sự tồn tại của nó? Ðối với tất cả những gì ta chưa có khả năng nhận biết được chớ vội vất vào cái sọt rác mê tín dị đoan thì khoa học còn việc gì để làm, còn gì để khám phá? Lâu nay, tôi đinh ninh mình là duy vật, hóa ra chính mình lại là duy tâm chủ quan: Cái gì ta cho là tồn tại thì nó tồn tại, cái gì ta cho là nó không tồn tại thì nó không tồn tại, nó chỉ là mê tín dị đoan! Lần đầu tiên trong đời tiếp xúc với linh hồn, tôi nhận ra như thế, hoặc suy ra như thế. Tuy nhiên, cũng còn phải chờ cuộc đào bới tiếp mới kiểm nghiệm được những thông tin do linh hồn cung cấp là đúng hay sai.

Vùng đào bới tiếp lại trùng hợp với vùng đào bới do anh Nhã chỉ dẫn. Vì vậy, cũng là một việc để kiểm nghiệm lại cái trận đồ bát quái của anh.

Hy vọng và hoài nghi lẫn lộn, tôi nóng lòng chờ ngày hẹn của cháu Hằng để cùng về La Tiến. Cuối cùng ngày hẹn được ấn định : 17/8/1999.


Ngày 17/8/ 1999 cuộc đào bới lần thứ hai

Ngay sau khi nhận được hẹn của cháu Hằng, tức là 4 ngày trước khi tiến hành cuộc đào bới lần thứ hai, tôi cử chú Quỳnh cùng anh Tân Cương về La Tiến làm các công việc chuẩn bị. Khi còn cách La Tiến 40 cây số, anh Tân Cương gọi điện cho anh Nhã. Anh rất mừng khi biết tin Bích Hằng vào cuộc. Lần này anh cho Tân Cương một tín hiệu: 10 giờ hôm đó, sẽ có hai con bướm màu bay lượn quanh mộ rồi đậu lại, hãy đánh dấu lấy chỗ đó.

Ðến nhà ông Ðiển, đúng giờ hẹn, anh Tân Cương ra gốc nhãn ngồi. Cái hố mà chúng tôi đào hôm trước nay đã được lấp bằng. Một lát, có hai con bướm đen đốm hoa bay đến, rồi một con bay đi, một con đậu lại trên cành nhãn. Anh Tân Cương chiếu thẳng từ cành nhãn xuống đất cắm một cây que đánh dấu lại. Cây que cách chỗ tôi đặt quả trứng hôm trước 2 mét ra phía bờ ao. Ông Ðiển đứng bên tường hoa theo dõi, chỉ tủm tỉm cười. Vào trong nhà ông mới kể sau lần đào bới hôm trước, ông mời "thầy" về cúng, thầy bảo mộ cô nằm cũng ở chỗ cây que đó.

Nghe anh Tân Cương thuật lại câu chuyện, tôi chỉ biết ghi nhận. Tất cả còn phải chờ kết quả cuộc đào bới tiếp. Nhưng nếu đúng thì thật kỳ lạ. Anh Nhã ở tận Sài Gòn, làm sao điều động được hai con bướm đến một điểm chỉ cách thành hồ cũ 1 mét? Ðiểm ấy đúng như ý anh chỉ đạo lần trước là phát triển về hướng Nam, nhưng không phải về hướng Nam như tôi đã thực hiện, mà xa hơn. Còn bà "thầy vườn"? Chẳng lẽ đất nước này cũng lắm người có tài năng kỳ bí, chứ không phải chỉ rặt một hạng người buôn thần bán thánh nhảm nhí?

Trong những việc tôi nhờ anh Tân Cương, có việc điều tra xem trong danh sách liệt sĩ của xã, có ai là Nguyễn Thị Bê. Anh thất vọng kể lại: Chẳng những lục tìm sổ sách mà còn đi hỏi rất nhiều cụ 70 tuổi trong làng, không đâu biết có một cái tên như thế. Ðối với tôi thì sự thất vọng càng lớn. Vậy là em gái tôi nói sai? Và cả anh tôi nữa. Thậm chí anh tôi còn nói cụ thể chị ấy là liên lạc cấp dưỡng của đội du kích. Em gái tôi và anh tôi thì tôi biết là người không thể nghi ngờ được. Vậy dấu hỏi phải đặt vào người nói: Có thật người nói là em gái tôi và anh tôi không?
Tối hôm 16/8, tôi không quên thắp hương và báo cáo với anh tôi rằng sớm ngày mai chúng tôi sẽ về La Tiến tìm mộ em Khang.

Ðến nơi, chị tôi theo đúng lời dặn của anh Sơn, bày hoa quả vào mâm đặt lên tường hoa, cháu Hằng khấn mời. Khấn xong, cháu cầm bó hương, đi thẳng ra gốc cây vải (cách gốc cây nhãn 6 mét về hướng Ðông, cả hai cây đều sát bờ ao). Ngắm nghía rồi cắm hương xuống đất. Lấy bó hương làm tâm, cháu vạch một cái hố hình chữ nhật để đào. (Sau này Hằng bảo tôi: "Khi cháu đang khấn thì đã thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải cô vẫy cháu lại rồi chỉ cho cháu chỗ cắm hương, đầu và chân ngôi mộ").

Nhìn bó hương của Hằng, tôi thấy nó cách quả trứng của tôi 3 mét ra phía bờ ao, nhưng lại lui về hướng Ðông dọc theo bờ ao 2 mét nữa. Cái hố mà cháu vạch không nhằm thẳng hướng tây - đông như cái hố hôm trước mà đầu về hướng tây bắc, cuối về hướng đông nam, sát gốc cây vải nghĩa là gần như vuông góc với cái hố hôm trước. Cái hố mới nằm ngoài hình tam giác hôm trước, cạnh của nó là cạnh đáy của hình tam giác nối dài ra phía bờ ao.

Trong khi thợ đào đất chuẩn bị làm việc, Hằng đặt ảnh cô Khang ở dưới gốc cây vải; rồi nói: "Thưa cô, chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo cô chỉ. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu nhìn thấy, còn rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không được đầy đủ thì cô cũng thông cảm cho". (Sau này tôi hỏi Hằng: "Cháu nhìn thấy hiện trạng của hài cốt thật ư?" Hằng nói cháu nhìn thấy.

Hồi năm 1994, tìm hài cốt 13 liệt sĩ ở núi Non Nước - Ninh Bình, cháu Hằng nhìn thấy hài cốt bị vùi dưới lớp đất sâu 4,5 mét. Khi đào đến độ sâu 3 mét, không thấy gì, mọi người đã nản, nhưng cháu yêu cầu đào thêm, vì cháu đã nhìn thấy hài cốt ở độ sâu ấy).

Cô Khang nói: "Lần này nhìn thấy cậu Quỳnh là chị phấn khởi rồi, cậu Quỳnh mà đi thì chắc là được (Lần trước Quỳnh không đi, Quỳnh lại là người tin vào thần Phật). Còn anh Dung (Tôi tên thật là Vũ Văn Dung) thì thần thánh anh ấy cũng chẳng sợ, có khi chỉ nhiễu quan trần, còn quan âm thì chẳng ai giúp mình. Anh Sơn tức anh Nhung nhà mình (tên thật của anh tôi là Vũ Văn Nhung) cũng ở đây suốt từ sáng. Anh cứ bảo sao mình chưa đến. Anh trách cháu An, nếu mà nó kiên trì, bình tĩnh thì đã đưa được cô về từ lần trước".

Cháu Hằng hỏi: "Ai là Hậu? Cô gọi chị Hậu". Chị tôi vội chạy từ trong nhà ra. Cô Khang nói tiếp : "Chị đã xuống đây mà không ra với em, lại cứ ngồi trong ấy. Hài cốt của em thì không còn nguyên vẹn. Nhưng chị bốc cho em một nấm đất về quê mình thì em cũng mừng rồi. Ở đây tuy có nhiều chị em đồng đội, nhưng không phải là ruột thịt, cả năm cũng chả ai đến thắp cho một nén hương. Chả lẽ cứ ở đây quấy quả nhà ông An mãi!".

Bác Sơn nói: "Cứ bốc cho bằng hết, dù ít dù nhiều thì cũng là máu thịt của em mình. Không bỏ vừa trọng tiểu thì đắp lên mộ cho em. Cái con Uyên là người hợp với em nhất, được cô cho nhiều lộc nhất, đáng lẽ hôm nay nó đi thì mới phải (Uyên là con gái út của tôi, nó đã đi hôm đầu tiên).

Anh Tân Cương hỏi Cô có biết cháu là ai không?

Cô Khang nói: "Nếu tôi không biết anh Cương thì hóa ra tôi vô tình quá. Anh lăn lộn với tôi nhiều".

Bác Sơn bổ sung: "Thằng Tuấn Anh chưa chắc đã lăn lộn với cô bằng anh Cương" (Tuấn Anh là con thứ hai của tôi, nó sinh ra mấy ngày sau khi anh tôi hy sinh).

Tân Cương lại hỏi: "Ai mai táng cô, cô có biết không? Nhiều người không tin là thi thể cô có thể trôi dạt vào đây. Cô vừa nói đến ông An, là ông An nào, ở đâu?"

Cô Khang nói: "Nếu có cách gì làm cho cụ Ðặng Ðình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi mất công tìm kiếm. Rất tiếc là đã gặp cụ ở âm phủ mất rồi. Em bị chúng nó ném xuống sông, khi xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh, được cụ Giám vớt lên, kéo qua một cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo: Mấy vị chết ở đây, nếu đói khát, khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc".

Ðược chị động viên, Quỳnh kể về quá trình đi tìm hài cốt của chị, trong đó có đoạn nói chị Tiến và chị Nhương báo cho gia đình mình đến nhận bộ hài cốt chôn ở gốc đa phía trên bến đò.

Người ta bảo cô Chử Thị Dung ở Thái Bình đã tìm thấy hài cốt của bố cô ấy chôn cùng với người phụ nữ đó. Ðể xác minh, em đã theo dấu chân cô ấy từ Thái Bình đến tận Vũng Tàu. Nhưng cô ấy nói rằng chính cô ấy cũng chưa tìm thấy hài cốt của bố cô ấy.

Nghe xong, cô Khang nói: "Chị nói cho em biết cái mộ ở gốc đa nếu là một nữ du kích mà nhận là chị thì còn được, đằng này lại không phải nữ du kích, sao ngộ nhận như thế được! Còn Chử Thị Dung, chính bố cô ấy đã kể với chị rằng em đã đến tìm gặp cô ấy. Ông ấy nhờ chị nói với em nhắn giùm cho cô ấy đến tìm bố. Bố cô ấy cũng nằm ở đây."

Rồi cô chỉ chỗ ngôi mộ, ngay dưới chân cái hố sắp đào. Ðó chính là ngôi mộ người đàn ông bị bắt từ Hải Dương về (Sau này Hằng kể lại người đàn ông lúc ấy cũng đứng bênh cạnh cô Khang nói lại, cháu mới nghe thấy, khi cô chỉ ngôi mộ, cháu nhìn xuống thì thấy hài cốt không có đầu)

Ðến đây cháu Hằng nói: "Xin phép cô cho bắt đầu".

Ðào hết lớp đất vượt thổ thì Hằng bảo thợ ngừng đào. Cháu nhảy xuống hố, lấy dầm gạt nhẹ từng lớp cát đen. Chỉ hơn một gang tay thì vướng vào thanh củi mục, nạy lên, thả vào nước thì nhận ra đó là một khúc tre già, thịt tre đã bị phân hủy hết, nhưng xơ tre và đốt tre thì vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, đường kính tương đối lớn, không thể tra vừa bất cứ một loại xẻng hay cuốn nào, chỉ có thể tra vừa cái thuổng hình lưỡi mai (mặt phẳng bề ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, nhưng dài hơn lưỡi xẻng).

Mọi người đều kinh ngạc khi biết thông tin về cái thuổng đã được báo trước. Riêng tôi thì mừng khôn xiết. Vì đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để nhận biết nấm mộ này đích thực là mộ em gái tôi. Cái cán thuổng đã bị vùi dưới đất cách đây 50 năm, người đời không ai nguy tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại được linh hồn mách bảo cho tôi chính ngày trước khi khai quật.

Người đời không ai nhìn thấy mà mách bảo được. Còn sự chính xác thì đạt đến mức chi tiết. Thú thật, khi nghe anh tôi nói đến cái cán thuổng, tôi nghi ngờ: Hoặc là anh tôi nhận định sai, hoặc là cháu Hằng dịch sai. Vì người đào huyệt phải dùng mai, xẻng cuốc, chứ sao lại dùng thuổng? Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến loại thuổng thông dụng nhất loại có lưỡi hình vũm để đào gốc cây, chứ không nghĩ đến loại thuổng hình lưỡi mai để đào đất, tác dụng giống như cái mai nhưng khỏe hơn cái mai. Loại thuổng này cũng còn nơi gọi là mai.

Sau khi tìm thấy cái thuổng, chỉ gạt vào lớp cát mỏng là thi hài em tôi hiện ra. Khi chôn, người ta đã đặt em tôi nằm nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu về hướng tây bắc, chân về hướng đông nam. Trùm lên sọ là một mảng tóc đen nhánh, rồi đến những đốt xương cổ nhìn rất rõ. Nhưng khi bốc lên thì tóc rụng ra ngay, những đốt xương nguyên vẹn gãy ra như những chiếc bánh bích quy thấm nước. Cháu Hằng hỏi cô Khang: "Răng cô ở đâu, để cháu mang đi đãi." Cuối cùng tìm được 5 chiếc răng. Tôi xem thì đúng là răng trắng, nhưng do ngâm lâu trong bùn nên ngả sang màu xám và đen xỉn. Theo đúng mệnh lệnh của anh Sơn, chúng tôi bốc tất cả số bùn đất theo hình người nằm cong, bỏ vào túi mang về. Cháu Hằng tìm mãi không thấy chiếc còng sắt. Cháu hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. Tôi nhận định: Có thể là nó đã rỉ đất qua 50 năm trong bùn.

Lúc này thì Hằng không dịch, nhưng hôm sau, cháu nói với tôi:

Lần này đi tìm mộ cô Khang, cháu thương cô quá. Lúc tìm được răng rồi, mấy người ở trên miệng hố nhắc cháu tìm móng tay. Cháu bèn hỏi cô: "Móng tay của cô ở chỗ nào cô chỉ cho cháu. Cô giơ hai bàn tay lên trước mặt cho cháu, nói: Chúng nó rút hết móng tay của cô rồi, còn đâu mà tìm!

Tôi vô cùng kinh ngạc, vì điều này chỉ mình tôi biết. Sau khi em tôi bị giặc sát hại. Huyện ủy Phù Cừ gởi riêng cho tôi bản báo cáo gởi lên cấp trên (Trước đó, tôi là phó bí thư tỉnh ủy Hưng Yên, có nhiều gắn bó với Huyện Phù Cừ), kể rõ em tôi bị bắt, bị tra tấn và bị giết như thế nào. Tôi không muốn một ai khác trong gia đình phải chịu đựng những nổi thương xót như tôi, vì vậy đã giấu kín những tin này. Nay được cháu Hằng kể lại, tôi tin chắc người nằm dưới mộ đích thực là em gái tôi.

Cháu Hằng lúi húi tìm kiếm và chỉ đạo mấy người giúp việc, thỉnh thoảng lại nhô đầu lên nói chuyện với những người ngồi trên miệng hố. Bỗng Hằng nói có một cụ cứ tủm tỉm ngồi nhìn, không biết có phải là cụ Giám không? Rồi Hằng cất giọng, lễ phép nói: "Cháu chào cụ ạ. Cụ cho phép cháu được biết quí danh của cụ". Lắng nghe hồi lâu, Hằng nói như reo lên: "Cụ An!"

Rồi Hằng tự giới thiệu mình cùng gia đình đi tìm hài cốt cô Khang, đề nghị cụ giúp đỡ.

Cụ An nói: "Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ đê, bên kia đầm, lần nào các bác về đây mà tôi chả biết. Tôi nhớ, đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà tôi, hỏi mượn tôi cái mai. Tôi hỏi để làm gì? Ông Giám: Suỵt! Ðể chôn người chết trôi. Tôi nhìn ra thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ Cách Mạng. Ở chỗ kia kìa có cái rãnh nước, ông giám kéo mấy cái xác vào rãnh nước, đến đây là chân ruộng mạ. Ông Ðiển mới ra ở đây thôi, chứ ngày ấy là ruộng mạ, thuộc chủ khác".

Cháu Hằng đưa ảnh cô Khang, hỏi cụ có nhận ra người chết được không? Cụ An nói: "Bà này là thân nhân của ông cán bộ trước là tỉnh ủy ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào thì cả tôi, cả ông Yền, ông Trọng đều không biết gì đâu, chỉ có ông Giám là biết thôi. Ðể tôi đi tìm giúp ông Giám".

Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về. Hằng nói nhỏ: "Cụ này già thế nhỉ!". Rồi Hằng tự giới thiệu và nêu ra đề nghị nhận diện người chết qua tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?

Cụ Giám nói: "Ðêm tối, tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi, mặt mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn như thế này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây giờ, nhưng xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem về đây không phải một người, mà ba người cơ. Tôi kéo người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng. Thì ra tay trái cô ấy xích vào tay phải người đàn ông. Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người một hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn người đàn ông thì ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được đến thế. Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng, không nắn thẳng ra được, đành đặt hơi nghiêng, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra phía gốc nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống ao rồi hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa".

Tân Cương nói: "Một số người không thể hiểu được xác chết trôi sông lại có thể vào được đến đây".

Cụ Giám nói: "Cái con mẹ Tiến nó cứ mồm năm miệng mười, chứ làm sao mà nó biết được bằng tôi. Ở ngoài kia nước cả, không đem vào đây thì vùi làm sao được? Cụ nói tiếp: Ðiều này thì tôi chỉ nghe phong phanh thôi. Tụi lính đóng ở đồn nó bảo người phụ nữ bị giết đêm hôm ấy là bà bé của tay xếp bốt".

Cụ An cãi lại: "Ông thì chỉ được cái ăn no vác nặng, chẳng có hiểu biết gì. Có lần ông chôn một anh bộ đội, ông lại bảo thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông, nhưng việc này thì tôi biết rõ. Có một người phụ nữ du kích bị bắt, thằng xếp Bách dụ làm vợ bé không được, nó đã giết đi. Ở bốt này có một thằng quan tư là quan thầy người Pháp, còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng cũng được gọi là xếp" (thằng Bách lấy vợ người La Tiến, dân đều biết rất rõ về nó).

Trời đã xế chiều. Mọi người hối hả thu dọn.

Hằng nói: "Bác Sơn bảo: Còn cái chân của cô, moi sâu vào mà bốc. Bác bảo cứ bình tĩnh! Từ sáng, bác đã rải quân canh phòng từ đầu làng rồi, không cho phép quấy rối". (Tôi không biết thực hư thế nào, nhưng mấy lần bới trước có cả trăm người vây vòng trong vòng ngoài, còn hôm nay thì chỉ có mấy đứa trẻ).

Bác bảo: Ðược bà chị xuống với em, chẳng giúp được việc gì, chỉ ngồi khóc! "

Tân Cương tưởng anh tôi nói về cô em dễ xúc động của tôi, liền chêm vào: "Sáng nay bà ấy cứ nhất định đòi đi".

Hằng cải chính: "Bác Sơn nói là nói đến bà chị, bác Nghĩa. Từ nãy, bà già cứ ngồi một chỗ khóc: Nhà có sáu chị em gái, ai nấy đều có phận, đâu đến nỗi nào, riêng em tôi giỏi giang xinh xắn nhất nhà thì thế này! Không tìm được xác em tôi, tôi chết cũng không nhắm được mắt. Bây giờ tìm được em thì mình cũng đã ra người thiên cổ rồi!"

Bất chợt nghe thấy con số 6, tôi vội bấm đốt ngón tay: 6 hay 5 nhỉ? Ðúng là 6.

Bác Sơn (như hiểu ý anh Tân Cương) nói: "Cho cái cô Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được cái bù lu bù loa, chẳng cho ai làm gì. Tính cái con ấy nó vậy!"

Cô Khang nói: "Sau lần gặp cô em, ông anh tôi đã về bốc cát lập ngay 7 bát hương, mỗi người một bát! Ðúng là một cuộc cách mạng với ông anh tôi! Em Khang cảm động khi nhận tấm lòng của anh Phương, chị Thủy".

Cụ An nói: "Bà cô là liệt sĩ, sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?"

Bác Sơn nói: "Hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp. Hôm nào đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, sẽ làm lễ truy điệu".

Cô Khang nói: "Cậu Quỳnh còn giữ những giấy tờ, bằng khen của chị không?" Quỳnh đáp: "Bằng khen và huân chương của chị em vẫn giữ". - "Hôm nào làm lễ truy điệu chị ở nghĩa trang liệt sĩ, cậu nhớ mang theo".

Tôi thật không ngờ; người chết đã 50 năm mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần thế!

Hằng nói: "Cô cười bảo: Cụ Giám ạ! Cụ nói oan quá, đã được làm bé ngày nào đâu? (mọi người cùng cười). Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng gọi là cô Khang tóc dài, nhưng khi bị bắt, nó đã cắt cụt hết tóc. Trong việc chôn cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công nhất. Chúng tôi rất biết ơn cụ".

Công việc thu vét hài cốt xong xuôi thì mặt trời sắp lặn. Mọi người vây quanh gốc cây vải, nơi đặt bàn thờ tạm. (Sau này Hằng kể lại: Suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó, buổi chiều thì bác Nghĩa cũng ngồi ở đó ôm lấy tấm ảnh, cụ An và cụ Giám thì ngồi ở xa hơn, về phía tường hoa ).

Cô Khang nói lời cảm ơn đối với gia đình bác Ðiển, bác Ðạt, nhờ bác Ðiển chuyển lời thăm hỏi đến chị Nhương, chị Tiến.
"Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh tôi. Nằm tại đây còn một bộ hài cốt, gia đình người ta cũng sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không còn gì. Nhờ bác Ðiển hương khói cho vong hồn chị, chị sẽ phù hộ cho. Hồi đi hoạt động lấy tên là Nguyễn Thị Bê, nhưng tên thật của chị là Nguyễn Thị Út (Mấy người làng ồ lên: Bà Út! Thế mà tìm kiếm mãi! )

Cuối cùng cô dặn: "Nhờ bác Ðiển đem mâm lễ phát lộc cho các cháu".

Chúng tôi đưa hài cốt em tôi về nhà, và 2 hôm sau, đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, có mặt đông đủ họ hàng nội ngoại. Sự xúc động được đón người thân sau 50 năm cách biệt xen lẫn với niềm tự hào về người con gái của dòng họ đã hiến cuộc đời mình cho cuộc sống hạnh phúc ngày hôm nay.

NHỮNG THÔNG TIN BÍ ẨN

Từ hôm gặp anh Nhã đến hôm bốc được hài cốt là một hành trình mò lần trong bí ẩn. Những thông tin do anh Nhã đưa ra, đối với chính anh cũng là điều bí ẩn: trúng hay trật, chính anh cũng không biết. Còn linh hồn? Chỉ có cháu Hằng nhìn thấy và nghe thấy. Cháu nói lại những điều cháu nghe được, còn thực hư thế nào cháu đâu có biết.

Cuộc hành trình đầy bí ẩn đã buộc tôi mò đến hai nhà ngoại cảm nổi tiếng, mỗi người một phương pháp: vẽ mộ và gọi hồn. Cả hai phương pháp đều dẫn tôi đến cùng một kết quả.

Hai mươi bốn ngày mò tìm trong bí ẩn, chỉ đến ngày cuối cùng ngày bốc mộ mới kiểm chứng được các thông tin. Tập hợp lại các thông tin, tôi có được một hệ thống thông tin mà tôi cho là đáng tin cậy, một số có thể xem như vật chứng bằng chứng. Những thông tin thu được qua các linh hồn.

1- Ðiều đầu tiên đặt ra với tôi: Có đúng là những linh hồn người thân đang nói với tôi không? Cháu Hằng nhận dạng được các linh hồn, cả những lúc cười cả vẻ mặt buồn hay vui. Linh hồn cô Khang và anh Sơn đã được cháu Hằng nhận diện qua tấm ảnh, còn tôi không nhìn thấy, tôi kiểm tra qua những điều mà linh hồn nói ra.

Hôm đầu tiên gọi hồn, lòng đầy nghi ngờ, tôi thủ sẵn trong túi tấm ảnh của anh Sơn, định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn. Nhưng, ngay khi nhìn thấy cô Khang, cháu Hằng đã báo cho tôi: "Có một người đàn ông, thanh niên đi cùng với cô". Nếu là một cô đồng gà mờ bịp bợm thì dại gì mà "đẻ số" cho mình như thế? Tiếp đến, cô Khang nói ngay: Người thanh niên đi cùng với em chính là anh Sơn đấy. Vậy là tôi đã kiểm tra được linh hồn cô Khang qua anh Sơn, và không những thế, đã nhờ cháu Hằng nhận diện cả hai linh hồn qua ảnh.

Ngày đầu tiên hai linh hồn đã nhắc đến 5 người trong gia đình tôi, với sự hiểu biết rất chính xác về tính cách của từng người. Ngày thứ hai tức ngày 17, hai linh hồn đã nhắc đến 10 người trong gia đình tôi, cũng với sự hiểu biết chính xác như thế, cách xưng hô cũng thể hiện rất đúng vị thế, thái độ và tình cảm của người nói đối với những người được nhắc đến.

Các con tôi, có ý kiến nói: Bích Hằng đã điều tra gia đình mình từ trước rồi. Sự nghi ngờ đó tôi biết là vô căn cứ, nhưng dù có điều tra đi nữa, cũng không thể đặt vào miệng người nói những câu như thế mà không phạm sai lầm.

Ngoài những người trong gia đình, cô Khang còn nhắc đến chị Tiến, chị Nhương là những người quen biết cũ, nhắc đến cả anh Cương, anh Ðạt là những người không quen biết nhưng đã góp sức vào việc tìm mộ gần đây.

Ngày 17 xuất hiện thêm 4 linh hồn nữa. Lần này thì không có ảnh để nhận diện. Nhưng qua những điều mà linh hồn nói ra thì phải thừa nhận đúng là những người đã chết đang nói. Bà già ngồi một chỗ khóc than, kể lể về sáu chị em gái, đúng là chị cả của chúng tôi chị Nghĩa.

Cụ An là người cho mượn cái mai và chứng kiến việc chôn cất, cụ Giám là người chôn cất, mỗi cụ nói ra những điều thể hiện đúng tư cách của mình. Còn linh hồn người đàn ông họ Chữ tuy nói không nghe rõ, nhưng đã nhờ cô Khang nói với chú Quỳnh nhắn giùm cho con gái ông ấy ở Vũng Tàu. Khớp lại những điều mà các linh hồn nói ra thì đều xác nhận hài cốt đã được bốc lên đúng là em tôi, theo những thông tin sau:

1- Cái cán thuổng là một vật chứng xác nhận thông tin mà linh hồn em tôi cung cấp, đồng thời xác nhận ngôi mộ đúng là mộ em tôi.

2- Răng trắng chuyển sang màu đen xỉn là một vật chứng xác nhận thông tin của linh hồn em tôi, đồng thời xác nhận hài cốt đúng là em tôi.

3- Thông tin của em tôi về chị Nguyễn Thị Bê, khi được biết tên thật là Nguyễn Thị Út, đã được xác nhận. Chị nằm trong danh sách liệt sĩ của xã.

4- Thông tin của em tôi về cái còng sắt khóa tay em tôi với tay người đàn ông đã được xác nhận qua lời kể của cụ Giám, tuy hiện vật thì không tìm thấy có thể nó đã rỉ thành đất.

5- Thông tin của em tôi về vị trí ngôi mộ cách cái hố đào lần trước ba bước chân xoải dài ra phía bờ ao đã được xác nhận trên thực tế. Thông tin của em tôi về 3 ngôi mộ sát gần nhau, gần như nằm trên một đường thẳng, trong đó mộ em tôi nằm giữa, điều này khớp với chỉ dẫn của cụ Giám.

6- Thông tin của em tôi về người dân đã vớt xác thực ra cũng là dân phòng giả dạng thôi, điều này khớp với bằng khen về thành tích kháng chiến mà cụ Giám nhận được, đồng thời khớp với lời kể của cụ Yền về vai trò mà làng giao cho cụ Giám.

7- Buổi sáng ngày 17, khoảng 10 giờ cô Khang nói rằng: người vớt xác là cụ Ðặng Ðình Giám, thì buổi chiều khoảng 3 giờ, chính cụ Giám xuất hiện kể về việc cụ đã vớt và chôn như thế nào.

8- Sáng cô Khang kể về việc cụ Giám dừng lại bảo, khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc, thì buổi chiều, cụ An xuất hiện nói về việc cụ Giám vào mượn cái mai, rồi kéo xác qua cái rãnh nước đến chân ruộng mạ như thế nào.

9- Khi xem ảnh, cụ Giám bảo người phụ nữ mà cụ chôn cất không để tóc dài như trong ảnh, mà cắt tóc đến gáy như Bích Hằng. Cô Khang xác nhận là đúng, chính bọn địch đã cắt cục tóc cô. Mớ tóc trùm lên sọ mà chúng tôi tìm thấy cũng là mớ tóc ngắn.

10- Cụ Giám tả lại khi chôn, cụ đã đặt cái xác hơi nghiêng vì không nắn thẳng ra được, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Trước đó chúng tôi đã tìm thấy hài cốt ở tư thế ấy.

11- Cô Khang kể với cháu Hằng về móng tay của cô. Ðiều này đối với tôi là một bằng chứng vô cùng quí giá để khẳng định hài cốt đúng là em tôi.

12- Cô Khang khoe với mọi người về việc ông anh bốc cát lập bát hương. Ðiều này tuy chỉ là tiểu tiết, nhưng chứng tỏ linh hồn em tôi đã biết việc tôi làm, kể cả việc nhồi cát vào 7 bát hương mấy ngày trước đó.

Nhìn lại cái trận đồ bát quái của anh Nhã.

Với những thông tin đáng tin cậy thu thập được qua các linh hồn, kết hợp với những thông tin do dân làng cung cấp qua cuộc điều tra của chúng tôi, tôi nhìn lại cái trận đồ bát quái của anh Nhã. Mọi thông tin anh cho tôi đều đúng, nhưng do sắp xếp không theo một trật tự logic nên khó hiểu, rối mù như một trận đồ bát quái. Bây giờ việc đã thành, tôi hiểu nó như sau:

1-Trước tiên phải tìm đến một cái vụng xoáy. Chính ở cái vụng này, xác em tôi khi còn chìm dưới đáy sông, đã bị cuốn vào. Cuối tháng 6 đang là mùa nước, mực nước sông Luộc khi chưa đến mức báo động, thường cách mặt đê chỉ vài mét. Lúc xác nổi lên gặp lúc triều cường thì không trôi tuột đi mà dạt vào một khúc quanh của con đê. Cái vụng xoáy chính là vụng Quạ. Khúc quanh của con đê cũng ở đó.

Vào mùa nước thì dải đất bãi ngoài đê, kể cả cây cối, đều ngập bỉm dưới nước, không thể chôn trên đất bãi được, mà phải kéo xác qua đê vào trong đồng. Nhưng dưới chân đê lại là một vùng ruộng trũng. Tháng 6 đang là mùa mưa, ruộng trũng đang bị ngập nước, vì thế phải kéo xác vào vùng chân mạ, cao hơn.

2- Ông Giám đã kéo 3 cái xác qua đê không khó khăn gì, vì mặt nước gần sát mặt đê. Nhưng nhà ông ở mãi cuối làng, cách đó một cây số, ông phải tạt vào nhà ông An để mượn cái mai. Khi dừng lại, ông đã nói với xác chết về việc xin lộc ông An mà anh Nhã đã nói, không phải là anh An con đã tiếp chúng tôi, mà là ông An bố tức là cụ An, cụ đã mất cách đây 40 năm. Cái quán ông An không phải là cái nhà anh An bây giờ, anh chị mới ra ở đó chừng 10 năm nay thôi. Bố mẹ anh vẫn ở cách đó 300m, sát mép cái đầm sen về phía Tây. Ông làm nghề chở đò ở bến La Tiến, còn bà làm hàng xáo và bán bánh đúc. Cái nhà tranh lụp xụp của ông bà đồng thời là cái quán bán bánh đúc.

3- Mượn được mai rồi, ông Giám đi trên con đường bờ vụng, còn xác thì kéo trên cái lạch nước gần nhà ông An, đến cái cống ở cửa chùa để đến vùng chân mạ mà nay là đất ở của cụ Nhờ và ông Ðiển. Con đường bờ vụng và cái lạch nước nay đã biến mất trong lòng cái đầm sen. Cái cống lấy nước từ lạch vào vùng ruộng mạ thì nay vẫn còn, nhưng đường làng đã ngăn cách nó với đầm sen, nó không còn tác dụng lấy nước vào vùng ruộng mạ nữa.

4- Hồi cải cách ruộng đất vợ chồng bà Nhờ được chia một mãnh ruộng mạ của địa chủ mà nay là đất ở của bà và ông Ðiển. Năm 1960, trong phong trào hợp tác hóa, ông bà đã góp ruộng vào hợp tác xã. Năm 1969, ông Ðiển được hợp tác xã chia cho một mãnh ruộng là đất ở. Mấy năm sau, bà Nhờ và nhiều nhà trong vùng cũng được chia đất ở. Ðó chính là cái xóm mới, dân mới ra khoảng 20 năm. Mộ nằm trên đất cô Nhường, đúng ra là trên đất cô Nhờ, cái âm thanh mà anh Nhã nghe lơ lớ như Nhường, Nhương, Nhượng, thực ra là Nhờ một cái tên rất quê và cũng ít gặp.

5- Ðường xá mà anh Nhã vẽ trên bản đồ thì anh Ðạt và cụ Yền nhận ra ngay, nhưng cụ Yền nhận xét: nó được vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi.

Tất cả những thông tin trên đến với anh Nhã đúng như đã diễn ra cách đây 50 năm (Chính xác là 49 năm + 1 tháng), sớm nhất cũng là 20 năm. Nhưng thông tin đến với anh không theo trình tự thời gian và cũng chẳng có mối liên kết giữa các hiện tượng, thành thử đã có lúc tôi nghĩ nó chỉ là trận đồ bát quái do anh bày ra.

6- Những dấu hiệu và tín hiệu khác cũng rất đúng nhưng lại là
những hiện tượng mới xảy ra, đang xảy ra hoặc sắp xảy ra. Cái gốc cây đổ là cây nhót mà ông Ðiển mới chặt, nhưng chưa kịp đánh gốc. 5 cây cỏ lại có 10 bông hoa màu tím nhạt thì sớm nhất cũng chỉ ra hoa được một tuần trước đó. Rồi bé gái mặt áo hoa xanh, rồi con chó vàng nằm một chỗ như ốm, rồi cái nhà mà bốn mặt điều sơn màu trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ ... tất cả đều đúng, nhưng tại sao anh Nhã nói trúng như thế, chính anh cũng không hiểu thì tôi làm sao mà hiểu được?

7- Cái bản đồ do anh Nhã vẽ, sau này tôi mới hiểu là chỉ có thể dùng để định hướng thôi, không thể xem như một bản đồ địa chính. Có những chỗ rất đúng về chi tiết như: rẽ trái 60 mét, rồi rẽ phải 45 mét. Nhưng cái quán ông An thì lại không nằm cạch đường, mà nằm bên kia cái đầm sen, cách nhà ông Ðiển chừng nửa cây số; cái quán tạp hóa có cửa màu xanh dương cũng không nằm cạnh ngã tư, mà nằm ở bên kia một cái ao to, tuổi tác của cô Nhường, của ông An, cũng chỉ áng chừng chứ không thực chính xác.

8- Ðịa điểm ngôi mộ rất đúng, nhưng chỉ đúng cho một hình vuông, có cạnh 5 mét. Ngoài hình vuông đó sẽ chạm vào 2 ngôi mộ khác. Trong khoảng diện tích 25m vuông đó phải đào một cái hố chỉ rộng 2,5 mét vuông, quả là không dễ gì trúng ngay được. Khi vẽ bản đồ anh ghi: Mộ nằm cách gốc cây đỗ 4 mét. Nếu đào đúng như thế về hướng đông - đông nam thì trúng. Nhưng khi anh hướng dẫn tôi về hình tam giác thì lại chỉ còn cách gốc cây đổ 1,5 mét. Khi chỉnh mộ thì anh bảo phát triển về hướng nam, đúng ra là phải phát triển về hướng đông - đông nam. Lần thứ hai, với sự chỉ dẫn của đôi bướm màu, thì tiến thêm về đông nam là đúng hướng. Nhưng nếu đào thì phần cuối của hố mới gần chạm đến đầu hài cốt. Phải đào một cái hố thứ ba, xoay ngang theo hướng tây bắc - đông nam và lùi hẳn về hướng đông hai mét, lấy dảy hoa tím chiếu thẳng ra bờ ao làm cạnh của hố, mới trúng được hài cốt. Qua đây, tôi hiểu tại sao anh Nhã dặn tôi, chỉnh mộ là một quá trình vất vả lắm đấy. Thực tình nếu phải đào đến cái hố thứ hai mà không đạt kết quả thì niềm tin và hy vọng mong manh của tôi vào con đường thần bí chắc sẽ bốc hơi hết, không còn gì để đào tiếp cái hố thứ 3. Nếu không nhờ được cháu Hằng chỉnh mộ theo con đường gọi hồn thì bao nhiêu công sức của anh Nhã và của tôi đều bỏ phí, xem như rơi vào tỷ lệ trật 40%.

9- Về độ sâu của cái hố phải đào thì chỉ dẫn đầu tiên của anh Nhã là rất đúng. Chính ở độ sâu 1,5 mét, chúng tôi đã bốc được hài cốt. Nhưng khi chỉnh mộ thì anh lại hai lần yêu cầu đào sâu thêm nữa. Phải chăng chính anh cũng đang phải mò mẫm trong sự bí ẩn?


NGHI VẤN VỀ SỰ BÍ ẨN

Hài cốt em tôi thì tôi đã tìm thấy, nhưng những con đường bí ẩn dẫn đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn. Khám phá ra những điều bí ẩn ấy không phải là điều dễ dàng. Tôi chỉ qua thể nghiệm của riêng mình mà đề xuất một số vấn đề, một số câu hỏi để các chuyên gia về lĩnh vực này xem xét.

1/ Tôi có căn cứ để tin rằng đã gặp linh hồn em tôi, anh tôi và chị tôi, cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất và linh hồn cụ An là người chứng kiến. Cháu Hằng đã nhận dạng được linh hồn, thậm chí nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh, đã nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Ðã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?

2/ Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn thể hiện những tình cảm vui buồn, quan tâm, ước muốn (thậm chí giận dữ như cụ Giám, tranh cãi như cụ An); vẫn nhớ và kể lại những việc đã qua, kể cả những việc xảy ra sau khi thể xác mình đã chết, vẫn theo dõi và đánh giá được những việc mà người sống đang làm. Như vậy linh hồn không phải là một vật thể vô tri vô giác, mà là một vật thể sống, có tình cảm và tư duy. Ðiều này đặt ra một câu hỏi: Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới của con người đang sống không?

Thế giới linh hồn hoạt động như thế nào? Có khả năng tác động gì vào thế giới của con người đang sống không?
Ðể đáp ứng những sự mong muốn của linh hồn người thân, người sống dâng đồ cúng tế tiền bạc, đồ dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hồn có tiêu vong đi không? Hay là tồn tại mãi mãi?

Tìm lời giải cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào suy luận thì sẽ dẫn đến tranh cãi bất tận. Vấn đề là chứng minh.

3/ Hầu hết mọi người đều không có khả năng nhìn thấy linh hồn, nhìn thấy hài cốt vùi lấp dưới lớp đất dày mấy mét. Chỉ một số ít người như cháu Hằng có khả năng đó. Khả năng đặc biệt ấy là do cấu tạo đặt biệt sinh lý nào vậy? Y học nên quan tâm tìm ra lời giải.

4/ Nếu khả năng nhìn thấy linh hồn và nghe thấy tiếng nói của linh hồn có thể quy về cấu tạo sinh lý đặc biệt của một số người thì khả năng nhận biết được những thông tin bí ẩn của anh Nhã, anh Liên và một số người khác càng khó khám phá hơn. Nhưng, một khả năng đã giúp cho nhân dân tìm được hằng ngàn hài cốt liệt sĩ, chẳng lẽ không đáng bỏ công tìm hiểu, khám phá?

5/ Ðể làm những công việc trên, liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã lập ra một trung tâm nghiên cứu có tên là "Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người". song quyền hạn và phương tiện thì rất hạn hẹp. Nên chăng thành lập một viện nghiên cứu có sự hỗ trợ về kinh phí của nhà nước, có sự quyên góp tự nguyện của những người quan tâm? Công việc của viện này, nếu thành công, xác nhận được sự tồn tại của linh hồn, thì không những có ý nghĩa nhân văn mà còn có ý nghĩa về nhiều mặt khác, kể cả về hình sự (Nếu người bị giết tự nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?), không những có ý nghĩa quốc gia mà còn ý nghĩa quốc tế.


Trần Phương.

Thuyết Luân hồi .

(Liên Tử )

Thuyết luân hồi (re-incarnation) là một trong những thuyết căn bản của hai tôn giáo lớn trên thế giớI là Ấn giáo(Hinduism) và Phật giáo .

Theo thuyết luân hồi thì kiếp sống hiện tại không phải là kiếp sống duy nhất. Trước khi sinh vào kiếp này, con ngườI đã trải qua nhiều kiếp trước. Và khi chết đi, con ngườI sẽ tiếp tục tái sinh vào những kiếp sau .

Các tôn giáo lớn xuất phát từ phương Tây thường không tin vào thuyết luân hồị Chẳng hạn như:

Do-Thái giáo (Judaism) cho rằng kiếp sống này là kiếp duy nhất. Sau khi chết con ngườI sẽ đi vào một giấc ngũ dài, thật dài, mãi cho đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng mới thức dậy để chịu sự phán xét của Thiên Chúa về những việc mình đã làm. Kẻ biết vâng lời Thiên Chúa thì được lên Thiên Đàng, ngược lại thì sẽ xuống hỏa ngục .

Ki-Tô giáo, bao gồm Công giáo, Chính-Thống giáo, và nhiều giáo hộI Tin-Lành khác nhau, cũng tin rằng kiếp sống này là kiếp duy nhất. Sau khi chết, nếu ta tin vào sự cứu chuộc của Chúa Jesus thì sẽ được lên Thiên Đàng, không tin thì sẽ xuống hỏa ngục .

Hồi giáo, bao gồm các phái Sunni, Shìite, và Sufi, cũng tin rằng kiếp sống này là kiếp duy nhất. Trong kiếp sống, nếu con ngườI làm đúng theo lờI dạy của Thiên Chúa trong Thánh Kinh Quoran thì sau khi chết sẽ được lên Thiên Đàng. Không làm theo thì bị xuống hỏa ngục.


Thuyết luân hồi còn quan niệm rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống hiện tại cũng không phải là vũ trụ duy nhất.

Cao hơn cõi mà chúng ta đang sống, có những cõi mà chúng sinh nơi đó thông minh sáng suốt hơn loài người rất nhiều . Họ có nhiều phương tiện, khả năng hơn hẳn loài ngườI gấp bội mà ta thường gọi là phép mầụ Tuy nhiên, họ vẫn bị chi phối bởi những sự vui buồn, thương ghét, giận sợ, muốn. Đó là cõi cũa những chúng sinh mà ta thường gọi là các bậc thiên thần, thần, tiên, thánh, v.v...

Cao hơn nữa là các cõi mà chúng sinh nơi đó không còn bị lung lạc bỡI những sự vui buồn, thương ghét, giận sợ, muốn.

Và còn các cõi cao hơn thế nữạ.. ngoài sự tưởng tượng của con ngườI bình thường.

Thấp hơn cõi mà chúng ta đang sống, có những cõi mà chúng sinh nơi đó tuy không khác chúng ta bao nhiêu, nhưng lúc nào cũng bị khổ não vì sự ham muốn vô tận mà không đạt được: ham ăn, ham vật chất, ham sắc dục, luyến tiếc cuộc sống đã mất. Quan hệ giữa họ vớI nhau thì đầy những giận ghét, sợ sệt, tức giận, nghi ngờ. Đó là cõi mà dân gian hay gọI nôm na là cõi âm.

Thấp hơn nữa, có những cõi mà chúng sinh nơi đó chỉ sống theo bản năng như con thú, không có ý thức, không có tình cảm.

Thấp nhất là các cõi mà ta hay gọi là địa ngục. Đó là nơi mà những gì xấu xa, tệ hại nhất đều dồn vàọ Chúng sinh ở đó chỉ lấy tàn bạo đối đãi nhau . Trong thâm tâm mỗI chúng sinh nơi đó đều bừng bừng ngọn lửa tàn bạo không bao giờ tắt . Vì vậy ngườI đời mớI còn gọi là hỏa ngục .

Theo thuyết luân hồi, các kiếp trước và các kiếp sau của một ngườI không nhất thiết là chỉ quanh quẩn trong cõi người . Chúng ta có thể đến từ các cõi khác, và có thể đi về các cõi khác sau khi chết .

Thế thì ai sẽ quyết định cho chúng ta sẽ đi về cõi nào sau khi chết? Nghiệp (karma) của chúng ta sẽ quyết định điều đó. Nghiệp là hành trang duy nhất mà mỗI ngườI có thể tích lũy và mang theo sau khi chết. Nếu như Nghiệp của ta đầy những dục vọng, thù ghét, dốt nát thì nó sẽ kéo ta đến một cõi xứng đáng cho ta như vậy . Nếu như Nghiệp của ta có nhiều sáng suốt, từ bi, thanh thản thì nó sẽ đưa ta đến một cõi thích hợp cho ta .


Theo Ấn giáo, mục đích của con ngườI là phấn đãu để được sinh vào các cõi tốt đẹp hơn, nếu như có sinh vào lại cõi ngườI thì cũng được làm ngườI có trí tuệ, có đạo đức, có đời sống hạnh phúc. Phấn đãu như thế nào thì Ấn-giáo có nhiều trường phái khác nhaụ Có những vị tu theo các phép khổ hạnh. Có vị tập thiền để kiểm soát những nghiệp xấu không cho phát triển. Có vị tập các phép thần thông để vượt lên các cõi trên. NgườI bình thường thì cố sống đạo đức, năng bố thí, tránh sát sinh .

Tuy nhiên, Ấn giáo cũng có những điểm tiêu cực, điển hình là chế độ kỳ thị đẳng cấp. Chế độ đẳng cấp xuất hiện dựa trên quan niệm cho rằng những giai cấp cùng khổ phải chịu như vậy vì kết quả của những nghiệp xấu của họ từ tiền kiếp. Các giai cấp giàu sang, quí tộc, các bậc tu sĩ thì xứng đáng được kính nể vì đó là do nghiệp tốt của họ mang lạị Quan niệm này là một quan niệm hết sức nông cạn và sai lầm về thuyết luân hồị Bởi vì một ngườI nghèo chưa chắc là nghèo hoài và người giàu chưa hẳn là giàu mãi mãị Bên cạnh đó, nghèo chưa chắc là đau khổ và giàu chưa phải là hạnh phúc. Vả lại, không thiếu gì những chúng sinh tràn đầy nghiệp tốt nhưng tâm nguyện tái sinh vào chỗ cùng khổ để thực hiện những ý nguyện cao cả. Thế nhưng quan niệm đẳng cấp đã bị các tầng lớp thống trị ở Ấn Độ lợi dụng để duy trì địa vị của họ. Qua nhiều thế kỷ, nếp suy nghĩ ăn sâu vào quần chúng, phải mất nhiều thờI gian mớI xóa bỏ được .

Theo Phật giáo, mục đích cuối cùng không chỉ dừng lại ở chổ được tái sinh vào chỗ tốt, mà là hoàn toàn thoát ra khỏi vòng luân hồi, không còn sinh và tái sinh vào các cõi nữạ Đạo Phật cho rằng ai ai cũng có khả năng thăng tiến để cuối cùng thoát khỏi luân hồị Ngay cả những chúng sinh nơi địa ngục, nếu giác ngộ và lo giải trừ nghiệp ác thì cũng có lúc lên được các cõi trên. Còn chúng sinh các cõI trên, nếu để cho nghiệp xấu phát triển, thì cũng có thể bị sa vào các cõi thấp hơn .

Tuy nhiên, việc này không phải dễ làm và cũng không phải dễ làm được trong một kiếp. Vì vậy, Phật giáo mớI có nhiều tông phái khác nhau, dùng những phương pháp khác nhau đễ giúp quần chúng thăng tiến tùy theo căn cơ và khả năng của tông người .

Tịnh-Độ tông dùng đức tin đễ giúp quần chúng. Người theo Tịnh-Độ tin rằng chư Phật và chư Bồ-Tát luôn có mặt để dìu dắt giúp đỡ chúng sinh đi dến chỗ giác ngộ. Với đức tin, chúng sinh sẽ phát tâm từ bi, sống đờI đạo hạnh. Khi chết đi, chúng sinh sẽ vững tin rằng chư Phật và chư Bồ-Tát sẽ dìu dắt mình về cõi Tịnh Độ. Nơi đó chúng sinh sẽ có điều kiện tốt đẹp hơn để tiếp tục tu tập hầu thăng tiến hơn nữa đến chỗ hoàn toàn giải thoát.

Thiền tông dùng sự sáng suốt để giúp quần chúng. NgườI theo Thiền tông luyện tập để tỉnh táo theo dõi cái Nghiệp của mình, hầu biết cách chận đứng và tiêu trừ các nghiệp xấu .

Mật tông dùng những kỹ thuật tu tập đặc biệt vớI sự trợ giúp của các bậc đại sư và của chư Bồ-Tát để giúp quần chúng kiểm soát và tiêu trừ nghiệp xấu .

Liên tông dùng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa để tóm gọn nội dung căn bản của đạo Phật hầu giúp quần chúng dễ dàng lĩnh hội .

Nam tông dùng các phép tu cổ điển để giúp chúng sinh diệt tham, sân, si, tìm được trạng thái thân tâm an lạc trong đời sống hàng ngày .

Phật giáo Hòa Hảo kết hợp đạo Phật vớI đạo đức truyền thống dân tộc, truyền bá giáo lý một cách đơn giản, dễ hiểu để giúp cho quần chúng bình dân dễ dàng hành đạo .


Bí ẩn trí nhớ về kiếp trước

Một cô bé người Anh đã làm mọi người kinh ngạc vì bắt đầu nói bằng thứ ngôn ngữ khác lạ vào một buổi sáng sau khi thức giấc. Cô không còn hiểu được tiếng Anh, không nhận ra cha mẹ và luôn tỏ ra sợ sệt...

Các chuyên gia vào cuộc và xác định, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh và thứ ngôn ngữ lạ mà cô sử dụng chính là tiếng Tây Ban Nha chuẩn. Bằng thứ tiếng này, cô cũng khẳng định mình là người Tây Ban Nha, rằng tại thành phố Toledo, trong một ngôi nhà trên đường phố, người hàng xóm vì ghen tị đã dùng dao đâm cô.

Cảnh sát Tây Ban Nha đã kiểm tra lại câu chuyện này; tất cả đều trùng hợp. Đúng là có một cô gái 22 tuổi từng sống ở Toledo , chính trong ngôi nhà và đường phố mà cô bé ở Anh đã nói đến. Một hôm, người ta tìm thấy cô bị giết chết. Cha mẹ cô đã già và tới nay vẫn còn than khóc vì thương nhớ con. Khi hỏi đến người hàng xóm nay cũng đã già, người này thú nhận tội ác của mình.

Báo chí thế giới đăng tải câu chuyện trên khiến nhiều người kinh ngạc. Nhưng các nhà khoa học thì không ngạc nhiên vì đối với họ, hiện tượng đó không phải là mới.

Vào những năm 1970, Elena Markard - cô gái Đức 20 tuổi ở Tây Berlin - bị thương nặng. Khi tỉnh lại, cô bắt đầu nói tiếng Italy rất chuẩn - thứ tiếng mà trước đó một chữ cắn đôi cô cũng không hề biết. Cô khẳng định tên mình là Rozetta Liani, sinh ở Italy năm 1887 và đã... chết ở đó năm 1917. Khi được đưa tới địa chỉ "quê cũ" tại Italy , Elena gặp một bà già, vốn là con gái của người phụ nữ có tên Rozetta đã quá cố. Không do dự, cô gái 20 tuổi Elena chỉ vào bà già và nói: “Đây là con gái tôi - Fransa”.

Tạp chí Tiếng vọng hành tinh của Nga cũng đã có lần kể về cậu bé Titu người Ấn Độ: Cậu bỗng nhiên nói rằng tên mình là Sures Varma, chủ một cửa hiệu ở Agra , có vợ là Uma và hai đứa con. Cha mẹ cậu hoảng sợ liền đi Agra tìm hiểu và được biết: Đúng là có một thương gia tên Varma từng sống ở đó và đã chết vì bị bắn vào đầu. Khi gặp góa phụ và hai đứa con, Titu nhận ra cả ba người. Một điều thú vị là trên đầu Titu có dấu vết bẩm sinh đúng vào chỗ vết thương của ông Varma trước đây.

Trong lịch sử từng có hàng nghìn trường hợp quay trở về cuộc sống dĩ vãng. Một lý thuyết được gọi là “trí nhớ gene” đã được đề xướng để giải thích các hiện tượng này. Theo nhà nghiên cứu Hidtoring Tan, trí nhớ gene là trí nhớ đã được di truyền từ các thế hệ trước. Ngay từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của mọi việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... Trí nhớ gene được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình.

Các nhà nghiên cứu sinh linh lại cho rằng hiện tượng này là do “phách” của một người đã chết nào đó nhập vào một người sống. Phách là cái nằm bên trong thể xác, thể xác có thể chết đi nhưng phách thì không bao giờ bị tiêu tan, nó tồn tại mãi từ kiếp này sang kiếp khác theo vòng luân hồi. Nếu người đang sống mà yếu về năng lực tinh thần và thể xác thì sẽ bị phách mới nhập khống chế, điều trước tiên là kích động việc nhớ lại cuộc đời của người đã chết. Lý thuyết này được khá nhiều người ủng hộ vì trong một số trường hợp, người quay trở về kiếp trước được xác định là hoàn toàn không có quan hệ họ hàng gì với người mà họ đã hóa thân.

Ai là người sở hữu trí nhớ gene?

Liệu có phải ngay từ khi sinh ra, mỗi người đều tích trữ trong bộ não mình dữ liệu về những đời trước? Các nhà khoa học nhận thấy rằng cả cuộc đời một con người, dù có sống đến 100 tuổi thì cũng mới chỉ tiêu thụ có 1/10 năng lực của bộ não. Có thể 9 phần còn lại đã tích chứa những ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa mà trí nhớ gene là cái khóa cần được mở mới biết được.

Theo ông Edgar Cayce, người được coi là có khả năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác: Đôi khi những hình ảnh trong trí nhớ gene được hiện ra qua những tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ, một hình ảnh nào đó khi đang thức, hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi được kích động bằng phương pháp thôi miên.

Các nhà khoa học thuộc Đại học Delhi (Ấn Độ) và Đại học Virginia (Mỹ) đã đưa ra một thống kê cho thấy, trẻ nhỏ có khả năng phát lộ trí nhớ gene mạnh hơn người lớn. Chúng thường sống lại “quá khứ xa xăm” của mình mà ngay bản thân và bố mẹ không hề biết. Chẳng hạn, nhiều đứa trẻ có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện này được xác định là có liên quan đến một người ở tiền kiếp. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan đến nước thì đứa trẻ này rất sợ nước. Nếu người ấy bị bắn chết thì đứa trẻ rất sợ tiếng nổ, hay trông thấy súng là hoảng sợ...

Theo sự phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson trong nhóm nghiên cứu, có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và ngược lại, nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái. Chính vì thế mà chúng có sở thích ăn mặc cũng như cử chỉ, dáng điệu phù hợp với giới tính của mình trước đó, tuy ngược hẳn với giới tính hiện tại.

Theo nhà siêu tâm lý Banglopp, những người bị chết bất đắc kỳ tử thường nhớ rõ về thời gian và những gì đã xảy ra ở kiếp trước khi họ bước vào một cuộc đời mới. Có lẽ cái chết bất ngờ của tiền kiếp, chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh, tử) đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ, khi vào thân xác mới vẫn giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng.

Còn một hiện tượng khác ít gây chú ý cho công chúng nhưng lại khiến các nhà nghiên cứu quan tâm, đó là thần đồng. Nó củng cố giả thuyết về “cuộc sống kiếp trước”. Có những thi sĩ, nhạc sĩ mới 10 tuổi, những sinh viên ở tuổi thiếu niên... Làm sao họ có ngay được nguồn vốn kiến thức và trí tuệ phức tạp đến như vậy? Câu trả lời của một số nhà khoa học là: Phần “phách” của nhiều thần đồng từng là của các nhạc sĩ, thi sĩ... Vào một thể xác mới, phần “phách” ấy nhớ lại niềm say mê cũ và làm cho thể xác mới có được những kỹ năng, kiến thức đã tích lũy từ kiếp trước.

Cho đến nay, các hiện tượng trên vẫn đang là câu hỏi lớn đối với giới khoa học. Sự nhớ lại kia là trí nhớ gene hay là sự “chuyển chỗ” của phách? Có giả thiết cho rằng, ký ức kiếp trước là một tập hợp thông tin được lưu giữ theo cách nào đó trong vũ trụ mà chỉ một số người có khả năng thu nhận.

Sơn Trà (Theo Sức Khỏe & Đời Sống )

Việc độ vong trong Kitô giáo và Phật giáo

Nguyễn Chính Kết, Việt Nam

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

Người Công giáo coi tháng 11 dương lịch hàng năm là tháng cầu nguyện cho những người quá cố, còn gọi là tháng các Linh Hồn, mà cao điểm là ngày 2-11, là ngày Lễ Cầu Hồn. Nhưng người Phật tử và người theo "Ðạo tổ tiên" lại coi tháng 7 âm lịch hàng năm mới là tháng để tưởng nhớ, cúng kiếng và chú nguyện cho những người đã khuất, mà cao điểm là lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng 7, hay cũng gọi là ngày Xá Tội Vong nhân.

Phật tử cũng như Kitô hữu đều tin rằng sau khi chết còn có một đời sống khác, và những người còn sống ở trần gian có thể giúp đỡ người đã chết - hiện đang sống trong một đời sống khác - thoát khỏi canh khổ của họ, hay giảm bớt đau khổ cho họ. Tuy nhiên quan niệm về số phận của các vong nhân và về việc Ðộ Vong của hai tôn giáo này (độ vong: cứu những linh hồn đã quá cố đang đau khổ vì hình phạt) có nhiều điểm khác biệt.

Trong chiều hướng Hội Nhập Văn Hoá và tìm hiểu các Tôn giáo, chúng ta thử so sánh hai quan niệm ấy, đồng thời rút ra những điểm đồng dị.

I. Quan niệm của Kitô giáo: Số Phận Ðời Sau

Người Kitô hữu tin rằng con người chỉ có hai đời sống: đời này và đời sau.

Ðời này ngắn ngủi, hữu hạn, còn đời sau vĩnh cửu, vô hạn. Nhưng số phận của đời sau - hạnh phúc hay đau khổ - lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào cách sống của con người trong cuộc đời ngắn ngủi này, nhất là vào tình trạng tâm hồn trong giây phút cuối cùng của cuộc đời. Người nào khi chết vẫn có ân nghĩa với Thiên Chúa sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Người nào chết trong tình trạng thù nghịch với Ngài, tức mắc tội trọng, thì bị phạt đời đời xa cách Ngài là nguồn hạnh phúc của mình.

Sự Thanh Luyện

Tuy nhiên, để xứng đáng thấy Thiên Chúa, xứng đáng kết hiệp với Ngài, Ðấng tuyệt đối hoàn hảo, và để hưởng hạnh phúc đời đời, con người cũng phải trở nên hoàn hảo, trong trắng như Chúa Giêsu đã nói: "Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên Trời là Ðấng hoàn hảo" (Mt 5,48). "Nếu sự công chính của các con không vượt hơn những người Pharisiêu, các con không được vào Nước Trời" (Mt 5,20). "Phúc cho những tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa" (Mt 5,8). Hạnh phúc vĩnh cửu đòi hỏi gắt gao như thế thì dù những người thánh thiện nhất cũng không đạt được vì nhâ�n vô thập toàn". Do đó, để xứng đáng vào Nước Trời, để đạt được tình trạng hoàn hảo trên, con người cần phải được thanh luyện một thời gian trước khi vào.

Sự thanh luyện đó đã được Giáo Hội định tín trong công đồng chung thứ 14, năm 1274 tại Lyon: "Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là thanh luyện" (Ds 856/464). Tín điều đó đã được lặp lại trong nhiều công đồng sau đó (xem DS 1580/840; 1620/983; 1867/998...).

Mục đích của việc thanh luyện làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Ðàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế, thật là hợp lý, vì đó là một "nơi" (Tạm gọi như thế. Thật ra, Thiên Ðàng, Luyện ngục hay Hỏa ngục không phải là những nơi hiểu theo nghĩa không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn Thiên Ðàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện, còn Hỏa ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...), hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là "nơi" chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi điều đó.

Thật vậy, thử hỏi: khi trở về nơi lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu họ còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho ta và những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ náo không? Bản thân ta cũng vậy, ta sẽ còn đau khổ và còn làm người khác đau khổ nếu ta còn một chút xấu xa, ích kỷ, độc ác... chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Ðàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Ðàng rồi, và biến Thiên Ðàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Ðàng nữa. Do đó, Thiên Ðàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa, thì phải thanh luyện cho hết.

Sự thanh luyện đó được gọi là Luyện Ngục.

Chữ Ngục khiến người ta liên tưởng tới một nơi chốn, một cảnh tù đầy. Thực ra không nên hiểu cụ thể như thế. Nên hiểu đó là một tgình trạng của tâm hồn được thanh luyện, được thánh hoá bằng những đau khổ nội tại cũng như ngoại tại.

- Ðau khổ nội tại là đau khổ vì khát khao được ở gần Thiên Chúa, kết hợp với Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc của mình mà không đựơc. Sau khi chết, linh hồn hết sức sáng suốt để nhận ra Thiên Chúalà nhu cầu khẩn thiết nhất, là nguồn hạnh phúc đích thực của mình, nên lòng khao khát Thiên Chúa lúc đó hết sức lớn lao. Tương tự như người rất đói, rất thèm ăn, và có ngay trước mặt một mâm cơm thịnh soạn, đầy hấp dẫn với đủ thứ cao lương mỹ vị, mà lại bị trói chân, trói tay không ăn được. Hay như hai tình nhân yêu nhau tha thiết mà phải sống xa nhau.

- Còn đau khổ ngoại tại cũng được thần học bàn tới, nhưng không được định tín. Giáo Hội Hy lạp phủ nhận loại đau khổ này. Khổ hình này được thần học truyền thống gọi là "Lửa". Một vài Giáo hoàng diễn tả Luyện ngục có lửa. (Ðức Innocentiô IV (1243-1254) và Ðức Clêmentê VI (1342-1352) Lửa ở đời này là lửa mầu nhiệm, vừa là vật chất vừa là tinh thần, vì có thể vừa đốt được thân xác mà vừa đốt được các linh hồn). Sắc lệnh của công đồng chung Firence (1438-1445) không còn dùng từ ngữ "lửa" để diễn tả hình phạt nữa, vì các nghị phụ Hy lạp không chấp nhận. Các nhà thần học hiện nay cũng không thích lý thuyết nói về lửa đó nữa.

Trong tình trạng thanh luyện, người ta thường chỉ nghĩ tới đau khổ các linh hồn đang trông chờ ngày gặp mặt Chúa mà không lưu tâm tới tình trạng tích cực của họ. Chắc chắn các linh hồn ấy có một hạnh phúc rất lớn, rất căn bản là biết chắc chắn mình được cưu rỗi, được Thiên Chúa yêu thương, (xem Ds 1488/778.), đồng thời họ mến Chúa hết sức vì không còn gì trỏ ngại lòng yêu mến ây nữa, và họ cũng ý thức được sự cần thiết của việc thanh luyện này, nên họ sẵn sàng và ước ao chịu mọi khổ hình để sớm gặp Chúa. Lúc đó, khổ hìnbh đối với họ không còn là "khổ" nữa. Cũng như một thí sinh sẵn sàng chấp nhận mọi cực nhọc mệt mỏi của việc học để chuẩn bị một kỳ thi với hy vọng sẽ có một tương lai huy hoàng. Việc thanh luyện vì thế trở thành tự nguyện. Họ sung sướng vì được thanh luyện, đựoc khổ vì Chúa, vì tình yêu.

Việc Ðộ Vong

Thời gian thanh luyện lâu hay mau chắc chắn tùy thuộc vào tình trạng hay mức độ hoàn hảo của mỗi linh hồn và vào tình thương can thiệp của Chúa. Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn được thanh luyện theo những điều kiện nhất định, đó là một tín điều.

Công đồng Trentê định tín Lễ Misa có thể được dâng lên để cầu nguyện cho ngườisống và kẻ chết, cho họ được tha tội, tha hình phạt, cho việc đền tội và cho những nhu cầu khác, (xem Ds 1753/950) đặc biệt cho những người chết trong Ðức Kitô được tinh luyện (xem Ds 1743/940). Ngoài lễ Misa, các tín hữu còn có những hình thức độ vong khác (Ds 1820/693) như cầu nguyện, bố thí, và làm các việc đạo đức (xem Ds 856/464). Người còn sống có thể đền tội thay cho họ bằng những hy sinh hãm mình, chấp nhận những đau khổ Thiên Chúa gửi đến một cách vui vẻ, vì một chi thể có thể đền tội thay cho một chi thể khác trong cùng một thân thể, và lại, tội không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn có tính xã hội: sự liên đới chịu trách nhiệm. Ðương nhiên, tín hữu còn sống càng trong sạch thánh thiện bao nhiêu thì khả năng độ vong càng hữu hiệu bấy nhiêu: "Một chi thể chết" không thể giúp cho một chi thể khác "sống" được.

Mọi việc độ vong đều phải qua tay Thiên Chúa chứ không trực tiếp ảnh hưởng tới các linh hồn. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn luôn luôn tự do. Sự độ vong của chúng ta không phải là một pháp thuật có sức ép buộc Thiên Chúa phải tha cho các linh hồn theo ý ta, hay ảnh hưởng tới Thiên Chúa một cách máy móc, tự động theo những định luật.

Việc độ vong trong Giáo Hội bắt nguồn từ việc làm của Juda Macchabêô (2 Mcb 12,40-60). Thời đó, sau một trận đánh, có một số binh sĩ do thái tử trận. Khi lục soát các tử thi, người ta tìm ra dưới áo họ ẩn dấu các đồ vật để cúng tế các thần ngoại lai mà luật cấm. Người do thái tin rằng tuy họ chết đi, khi mang tội đó, nhưng họ vẫn được cưu rỗi. Họ cầu nguyện để xin Chúa tha tội cho những người ấy. Rồi họ quyên góp 2000 quan tiền nhờ Juda gửi lên Jerusalem để tế lễ chuộc tội. Bản văn khen ông: "Ðó là việc làm rất tốt lành và có giá trị cao quí do tin vào việc sống lại, vì nếu không tin vào sự sống lại thì cầu nguyện cho những người chết là uổng công vô ích. Nếu ông nghĩ tới phần thưởng dành cho họ thì quả là tư tưởng lành thánh và đạo đức. Vì thế, ông đã dâng lễ xá tội để người quá cố được tha thứ tội lỗi."

2. Quan niệm của Phật giáo: Luật Luân hồi và Nhân quả

Trước hết,người Phật tử quan niệm cuộc đời hiện tại không phải là kiếp sống duy nhất của mình mà chỉ là một trong hàng trăm ngàn kiếp sống kết tục nhau như những mắc xích trong cả một chuỗi xích dài vô tận. Kiếp hiện tại là quả của kiếp quá khứ mà cũng là nhân cho kiếp tương lai. Nghĩa là nếu kiếp này mình làm lành thì kiếp sau gặp hiền, làm ác thì kiếp sau gặp dữ. Bất cứ một động tĩnh nào trong tư tưởng, lời nói, hay việc làm xảy ra nơi con người, đều có nguyên nhân trong quá khứ và đều gây ra hậu quả trong tương lai. Ðó là luật nhân quả. Chuỗi nhân qủa không bao giờ chấm dứt. Vì thế, con người chết đi để bắt đầu một cuộc sống mới, một kiếp khác.Và cuộc sống mới này mang hình thức nào tùy thuộc cái nghiệp đã gây ra trong kiếp trước. Ðó là luật luân hồi.

Lục Ðạo

Luân hồi có 6 nẻo, gọi là Lục Ðạo, tức 6 cảnh giới, sau khi chết, con người sẽ phải đầu thai vào một cảnh giới trong đó tuỳ theo nghiệp lực đã tạo trong quá khứ. Lục Ðạo gồm có: Thiên, Nhân, Atula, Ngạ qủy, súc sinh, địa ngục (xếp theo mức độ từ sướng tới khổ).

Thiên : cảnh giới của loài "thiên thần" tốt lành, vô hình đối với con người, vì mang thân xác vi tế hơn con người, sống trong những điều kiện dễ dàng hạnh phúc hơn, đời sống cũng lâu dài hơn con người rất nhiều.

Nhân : cảnh giới của con người, điều kiện sống khó khăn hơn, nhưng lại là cảnh giới thuận tiện nhất để tu giải thoát, nhờ có sự quân bình tương đối giữa sướng và khổ.

Atula : cảnh giới của một loài "thiên thần " (cũng vô hình dưới mắt con người tương tự những sinh linh trong cảnh thiên, nhưng họ phải chịu nhiều đau khổ.) xấu. Là những sinh linh nhiều tham vọng, ham quyền lực, kiêu căng, ghen ghét, ganh tị... nên thường xuyên có chiến tranh, và những đau khổ thiên về thiên thần.

Ngạ Quỷ : (nghĩa là qủy đói) cảnh giới của những sinh linh tham lam vật chất, của cải, tiền bạc, lạc thú vật chất như ăn uống, nhục dục... (cũng vô hình dưới mắt con người). Lúc nào họ cũng khao khát những thứ đó mà không bao giờ được thỏa mãn, khiến họ luôn khổ đau.

Súc sinh : cảnh giới của loài vật mà chúng ta vẫn thấy: thú vật, chim chóc, cá... Ít hiểu biết, kém ý thức. Ðời sống thấp kém, hầu như không có đời sống tinh thần. Thường xuyên sống trong sợ hãi có thể bị thú khác hoặc bị người giết ăn thịt, hoặc có thể bị thúc đẩy đi giết các thú khác. Tất cả đều sợ đói.

Ðịa ngục : cảnh giới của những sinh linh độc ác, (cũng vô hình dưới mắt con người) hận thù, ích kỷ, ghen ghét, hay giận dữ, hay gây đau khổ cho người khác. Họ phải chịu những cực hình rất đau đớn, khắc nghiệt. Ðời sống trong các địa ngục dài hay ngắn tuỳ theo từng địa ngục khác nhau, tuỳ theo sự trầm trọng của điều xấu họ đã làm.

Tất cả các cảnh giới trên đều bị chi phối bởi luật vô thường, nên không có ai cứ được hay phải ở mãi trong một cảnh giới nào, vì không có một điều phúc đức nào vô cùng để đáng thưởng đời đời, mà cũng không có một tội ác nào vô cùng để đáng bị phạt đời đời cả. Do đó, sinh linh cứ tái sinh, cứ bị trôi lăn trong lục đạo đó mãi. Chỉ có những con người biết tu tập trí tuệ để giác ngộ được con đường giải thoát mới ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó.

Trong Lục Ðạo, chỉ có hai cảnh giới được coi là sướng, là cảnh giới Thiên vàNhân, nhưng cảnh giới Nhân là qúy hơn cả. Xét về hạnh phúc thì cảnh giới Thiên có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, nhưng chính vì thế, mà họ bị ru ngủ không muốn đi tìm sự giải thoát thật sự, để rồi khi họ hưởng hết phúc lành, họ lại rơi vào một cảnh giới khổ hơn. Các Atula thì tâm trí bị thu hút vào việc tranh cãi và hơn thua. Các Ngạ qủy thì quan tâm đến những thèm khát không được thỏa mãn. Súc sinh thì u mê chỉ nghĩ đến thức ăn và thoả mãn tính dục,.Còn sinh linh ở địa ngục thì bị hình khổ đủ cách, nên không có đầu óc đâu mà nghĩ đến Ðạo giải thoát. Chỉ có con người sướng khổ tương đối quân bình, nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát tâm đi tìm con đường giải thoát. Chỉ có con người là có nhiều tự do quyết định hơn cả, có đầu óc sáng suốt hơn cả, để có thể đạt tới trí tuệ giải thoát. Nên trong Lục Ðạo, chỉ có con người là có nhiều cơ may, nhiều khả năng để thành Phật nhất. Do đó theo Ðức Phật, được làm người là cả một cơ hội quý báu không nên uổng phí (kinh Duy Ma Cật, Phẩm Phật Ðạo, Phẩm 8 nói rõ điều đó).

Việc độ vong

Trong Phật giáo, không có quan niệm về một Ðấng Sáng Tạo, điều khiển và chi phối mọi sự. Tất cả đều xảy ra theo quy luật của vũ trụ. Một người bị rơi vào địa ngục hay đầu thai vào cảnh giới nào hoàn toàn không do một Ðấng Tối Cao nào phán xét và định đoạt cả. Cũng y như một người xử dụng dao không khéo bị đứt tay, hay một người ích kỷ bị mọi người ghét, một người vui vẻ được nhiều người thương. Ðó là luật Nhân Quả tác động một cách khách quan như bao định luật khác. Việc độ vong cũng chỉ dựa vào luật nhân quả mà cứu, chứ không cầu khẩn ai được cả. Cũng như muốn cứu một người bị điện giật, bị bệnh ung thư,... điều quan trọng là có biết cách cứu hay không, có biết những định luật về điện hay về bệnh tật hay không. Ðịnh luật có nhiều thứ, vật lý, tâm lý, siêu vật lý, siêu tâm lý...

Quan niệm của người Phật tử về việc độ vong căn cứ trên câu chuyện trong kinh Vu Lan: Mục Kiều Liên được Ðức Phật chỉ dạy cách cứu mẹ mình - là bà Thanh Ðề - thoát khỏi kiếp Ngạ qủy. Phật dạy ông mời những vị cao tăng vừa "an cư kiết hạ" (An cư kiết hạ: là thời gian Phật quy định cho chư tăng ở mỗi địa phương phải hội về một nơi thuận tiện để chuyên tu mỗi năm, từ 16/04 đến 15/07 âm lịch. Tương tự như tĩnh tâm, cấm phòng hay linh thao bên Kitô giáo.). Suốt ba tháng xong, tới chú nguyện để vong linh mẹ ông chuyển tâm địa độc ác thành tâm địa lành, nhờ đó mà thoát khỏi kiếp Ngạ quỷ, sinh vào cảnh giới hạnh phúc hơn.

Trong việc cứu bà Thanh Ðề, mẹ của Mục Kiều Liên, Phật đã áp dụng tới sức mạnh của sự chú nguyện (chú nguyện: chú là chú ý, tập trung tư tưởng, hay năng lực tinh thần vàoi việc gì; nguyện là cầu mong, ước muốn) khác với cầu nguyện bên Kitô giáo, chú nguyện là tập trung hết năng lực tinh thần của mình để ước muốn điều gì, năng lực được tập trung lại đó nếu dù có thể làm biến chuyển, thay đổi tình thế. Ðây là vấn đề sức mạnh của tư tưởng mà các nhà tâm lý học hiện đại đều công nhận), của rất nhiều nguời có năng lực tinh thần rất mạnh (các cao tăng sau thời gian tinh tấn tu hành - ba tháng "linh thao") để tác động vào bản thân của bà Thanh Ðề khiến bà thay đổi tâm địa (từ tâm ích kỷ bủn xỉn độc ác, thành tâm vị tha quảng đại từ bi). Tâm thay đổi thì sướng khổ cũng thay đổi theo như câu: "Tội tuỳ tâm sinh, tội tùng tâm diệt" hay "khô tuỳ tâm sinh, khổ tùng tâm diệt". Nhờ vậy bà thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, sinh vào cảnh giới lành, không có sự can thiệp của thần linh nào vào đây cả.

Lễ Vu Lan cũng như tháng 7 âm lịch là dịp để cho người Phật tử đặ�c biệt làm công việc cứu độ ấy bằng sự chú nguyện, không những cho cha mẹ ông bà tổ tiên mình mà còn cho nhiều người khác nữa.



Tìm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm

Các nhà ngoại cảm đang tìm mộ liệt sĩ ở Trường Sơn.

Tới nay, đã có gần 7 nghìn bộ hài cốt được các nhà ngoại cảm thuộc Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người tìm thấy, cùng với ít nhất 4 đề tài khoa học trong lĩnh vực này. Việc tìm hài cốt này có thể được giải thích bằng cơ sở khoa học.

Năm 1993, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng của Trung tâm tham gia phát hiện hài cốt 13 liệt sĩ ở Non Nước. Nhưng khả năng này của cô được phát hiện từ lâu trước đó. Đó là một lần giỗ bà nội, cô nhìn lên bàn thờ thấy bà ngồi cùng hai đứa bé. Hằng hoảng sợ hỏi ông nội: "Hai cậu bé ngồi cùng bà nội kia là ai?". Ông nội ngạc nhiên giải thích: "Con đầu của ông bà được hơn 1 tuổi thì chết, đến người con thứ 3 được hơn 2 tuổi cũng chết".

Rồi đến lần đi trên bờ ruộng giữa 2 bên mênh mông nước, Hằng nhìn thấy có những bộ xương người bên dưới. Những chuyện "nhìn thấy" như vậy cứ lặp lại, và chuyện Hằng có khả năng tìm mộ cũng bắt đầu từ đấy. Có điều - như Hằng cho biết - mọi chuyện "kỳ lạ" ở Hằng chỉ diễn ra sau lần cận kề cái chết do bị chó dại cắn...

Bẵng đi nhiều năm, cuối năm 2004, tin Hằng tìm và xác định được danh tính 3 liệt sĩ là những chiến sĩ cảm tử thuộc trung đoàn Bảo vệ Thủ đô trong khuôn viên Trường THCS Trưng Vương (HN) đã khiến nhiều người cảm kích. Chuyện kỳ lạ về những người đi tìm mộ lại được nói đến ngày một nhiều.

Tìm hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính trên mộ liệt sĩ vô danh là công việc vô cùng khó khăn. Điều kiện tiên quyết để tìm thấy mộ là phải có một người thân đồng huyết thống. Bích Hằng cần có ảnh liệt sĩ để giao tiếp với liệt sĩ qua ảnh (sau đó ra thực địa để xác định nơi có hài cốt). Nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng sử dụng phương pháp bắt mạch thái tố để biết quá khứ, hiện tại và tương lai của thân nhân liệt sĩ, trong đó có xác định mộ liệt sĩ. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bẩy thì quan sát ấn trường của thân nhân liệt sĩ để vẽ sơ đồ mộ chí, đường đi tới mộ và ra thực địa để xác định vị trí mộ.

Việc tìm mộ đã khó, nhưng tìm thân nhân cho liệt sĩ (mộ vô danh) còn khó hơn nhiều bởi các nhà ngoại cảm phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để "giao tiếp" với "vong" người nằm dưới mộ nhằm lấy đủ các thông tin: Tên liệt sĩ, quê quán, tên những người thân còn có thể tìm kiếm được... Đây là những thông tin của người đã khuất chỉ dẫn đi tìm người sống.

Trong năm 2004, nhóm các nhà ngoại cảm thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã tiến hành tìm kiếm hàng trăm trường hợp liệt sĩ vô danh, có nhiều trường hợp rất đáng chú ý. Theo một ghi chép của Trung tâm, tại nghĩa trang liệt sĩ Mường Thanh, các nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng, Phan Thị Bích Hằng và Nguyễn Khắc Bẩy đã "giao tiếp" được với 30 liệt sĩ.

Liệt sĩ Trần Văn Chính "cho biết" quê ông ở xã Phú Hộ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ, là dân công đi phục vụ ở Điện Biên Phủ. Các nhà ngoại cảm cho biết được liệt sĩ Chính nhờ nhắn cho bạn là Trần Thọ Vệ, đã từng học lục quân Trần Quốc Tuấn khóa 4, hiện còn sống ở xã Phú Hộ. Ngày 11/9/2004, các nhà nghiên cứu thuộc bộ môn Cận Tâm lý của Trung tâm đã tìm được ông Trần Thọ Vệ ở xã Phú Hộ. Ông Trần Thọ Vệ đưa các nhà nghiên cứu đến gia đình liệt sĩ Trần Văn Chính.

Còn liệt sĩ Trần Văn Thanh, sau khi "kể" chuyện ông được đồng đội gọi là "Thanh con" vì trẻ tuổi và nhỏ người, còn gửi lời hỏi thăm chỉ huy Trương Tích Phong ở Lệ Mật, Gia Lâm, Hà Nội và nói rõ: "Tôi là người mang thủ trưởng Phong ra khỏi hầm bị sập ở chân đồi A1. Thủ trưởng Phong cũng tốt nghiệp lục quân Trần Quốc Tuấn khóa 4". Những thông tin này về sau đã được ông Trương Tích Phong xác nhận.

Cuối tháng 10/2004, Phan Thị Bích Hằng cùng một số thành viên bộ môn Cận Tâm lý đã trực tiếp tiến hành khai quật tìm 3 liệt sĩ có tên là Phan Hào, Nguyễn Văn Dư và Nguyễn Văn Đẳng. Các cựu chiến binh (đa số là cán bộ cao cấp của tiểu đoàn 77 hiện còn sống) đã xác nhận đồng chí Phan Hào là trung đội trưởng, Nguyễn Văn Dư là chính trị viên, Nguyễn Văn Đảng là chiến sĩ trung đội 1, đại đội 1, tiểu đoàn 77, hy sinh ngày 21/12/1946 trong trận đánh bảo vệ Bộ Quốc phòng (khi đó đặt tại trường Trưng Vương, 26 Hàng Bài, HN). Có một chi tiết khá đặc biệt: "Vong" liệt sĩ cho biết đồng chí Dư hy sinh khi bị mất đầu, anh em lấy một cái bát úp vào cổ. Khi khai quật, những người tìm kiếm đã tìm thấy cái bát bộ đội dùng thời đó. Hài cốt liệt sĩ Phan Hào đã được cháu ruột là Phan Bích Hạnh tới nhận.

Theo tiến sĩ Nguyễn Chu Phác, xem xét dưới góc độ khoa học hiện đại, việc "thấy" của các nhà nghiên cứu gọi là "thiên nhãn thông" - một trong 10 lợi ích của thiền định. Trường hợp Bích Hằng tìm mộ cụ Lương Ngọc Quyến mất năm 1917 ở đồi Vô Tranh, Phú Lương (Thái Nguyên), nhiều chi tiết nói về địa hình... trước khi gia đình đi thực địa đều đúng. Cũng có khi nhà ngoại cảm "thấy" được "vong" xuất hiện rõ là nam hay nữ, người già hay trẻ em, thậm chí thấy trên mặt có nốt ruồi hay sẹo ở đâu, khi hy sinh bị đạn vào chỗ nào...

Quan trọng nhất vẫn là đặc điểm về hài cốt hoặc vật chôn theo. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bẩy đã nói trước khi gia đình bà Trần Thị Bảo và ông Trương Ngọc Thuận đi tìm mộ bố là 11 giờ sẽ có một cô gái răng vẩu ra chỉ mộ, khi đào lên hài cốt có chôn theo mấy đồng tiền cũ và mọi việc đã diễn ra đúng như vậy.

Để "thấy", nhà ngoại cảm phải nhắm mắt lại và hình ảnh cần "thấy" sẽ hiện lên trong đầu. Giáo sư Nguyễn Ngọc Kha giải thích cơ sở của hiện tượng này là "tổ chức lưới" đặc biệt dưới vỏ não đã tạo ra "trực giác xuất thần". Ở một số người mà hệ thần kinh chịu những sang chấn đặc biệt như chết lâm sàng, điện giật, đau quá nặng... những sang chấn đó được hoạt hóa vùng dưới vỏ, tương tác mạnh với vỏ não và xuất hiện ra ngoài các khả năng đặc biệt.

(Theo Lao Động)


Có hay không Kiếp Luân hồi?

Sau khi chết, con người có “trở lại” mặt đất theo một vài dạng khác không? Giới khoa học phương Tây và các chuyên gia tâm lý đã dày công nghiên cứu một cách có hệ thống về “kiếp luân hồi” từ rất lâu nhằm phân tích dưới ánh sáng khoa học về bản chất vấn đề. Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến “kiếp trước” hoặc sự “đầu thai vào kiếp sau”. Rồi họ nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ, logic và nghiêm túc. Nếu phát hiện ra điều gì đó “không bình thường”, họ liền phân tích một cách chuyên sâu hơn nhằm khám phá xem có liên quan gì tới “kiếp luân hồi” – theo quan điểm tín ngưỡng cố hữu không?

“Mảnh đất màu mỡ” cho các cuộc nghiên cứu nói trên đa số là các trẻ em. Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ), bắt đầu kể về “kiếp trước” của mình trong thời còn là một bé gái. Người mẹ thì cho rằng con bé nói rặt những chuyện ngốc nghếch và luôn tìm cách ngắt lời đứa bé. Nhưng Roberta vẫn không ngừng kể về “cha mẹ trước đây” của mình. Em còn kể về chiếc ôtô mà “người cha kiếp trước” từng có và khẳng định rằng em đã cùng sống với “cha mẹ cũ” tại một khu trang trại. Khi bé gái lên 4 tuổi, em được dẫn tới một trại chuyên thuần ngựa nòi. Roberta rất tự nhiên và phấn chấn nói: “Con từng cưỡi ngựa thuần thục nhiều lần rồi”. Thật ra, em đã trèo lên mình ngựa bao giờ đâu. Roberta còn đòi mẹ làm những món thức ăn “khoái khẩu”“mẹ trước” đã từng nấu. Em tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quãng đời “kiếp trước” của mình và không bao giờ nhớ lại được nữa (?!).

Còn Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo (Sri Lanka). Trước khi bé biết nói, cha mẹ nhận thấy rằng em rất sợ… nước. Mỗi khi người mẹ định tắm cho bé, đều gặp phải các phản ứng dữ dội cùng tiếng kêu khóc. Em còn rất sợ ôtô. Khi Samlini nói được, em đã mô tả “quãng đời trước đây” của mình một cách tỉ mỉ. Em kể: “Một hôm cha mẹ “kiếp trước” sai em đi mua bánh mì. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buýt đi sát bên cạnh, hất em xuống đồng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: “Mẹ ơi!”. Sau đó, em bị chìm hẳn vào giấc ngủ vô biên”.

Cha mẹ của Samlini suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Sau đó một thời gian, họ biết được câu chuyện của một bé gái 11 tuổi từng bị chết đuối trong hoàn cảnh tương tự, y hệt câu chuyện mà cô con gái họ đã kể lại. Còn bản thân Samlini Permac không thể biết được sự kiện này vào bất cứ trường hợp nào, bởi đơn giản lúc ấy bé chưa ra đời (?!).

Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lý học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson - người đã nghiên cứu các hiện tượng về “kiếp trước” suốt nửa thế kỷ nay - kể lại. Ông cùng các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Tổng hợp Virginia đã thử tìm các bằng chứng, được tồn tại như một “thực trạng X”, mặc dù không tìm được những yếu tố vô lý trong “các X” và họ cũng không thể lý giải chúng dưới ánh sáng khoa học được. Giáo sư Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như “ảo giác” - nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. Còn một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đã từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự “đầu thai” hoặc “kiếp luân hồi” hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thuyết, chứ chưa “dám” nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.

Trước đây nhiều năm, đa số các nhà khoa học phủ nhận sự “đầu thai”, cho đó là một trò “hoàn toàn lừa bịp”. Nhưng ngày nay đa phần trong số họ đã thừa nhận hiện tượng này như là một phương cách chữa các chứng khủng hoảng tâm lý. Còn Giáo sư Tiến sĩ Abraham Kelsy, Trưởng khoa Y học lâm sàng của Viện Đại học New York, trong các thực nghiệm riêng của mình đã dùng những phương pháp giúp các bệnh nhân nhớ lại “quãng đời kiếp trước” của họ, và bằng cách này giúp họ giải phóng khỏi những vướng mắc hiện tại.

Ông giải thích: “Tôi đã rút ra được kết luận là, rất nhiều biểu hiện hiện tại của người bệnh là hệ lụy của kiếp trước và chính chúng là những trở ngại phong tỏa nghị lực của cuộc sống thực tại. Theo tôi, cơ thể con người luôn mang sẵn những thứ phi vật chất, những thứ vẫn tồn tại sau khi thân xác đã chết. Nôm na như người phương Đông gọi là “hồn”. Chính thứ “hồn” này được tái sinh - đầu thai lại. Niềm tin này của tôi càng được củng cố qua các phân tích tỉ mỉ về “chất lượng riêng” của mỗi cá nhân. Tại sao trong một gia đình, trẻ em thường khác biệt nhau, dù rằng chúng được sinh ra cùng cha cùng mẹ, có cùng một tổng thể gien và lớn lên trong cùng một môi trường? Rất nhiều trẻ em, khi đang chơi, luôn có xung quanh chúng “những người bạn vô hình” nào đó mà chúng luôn cho là đang hiện hữu thật sự. Tới độ 4-5 tuổi, thứ cảm giác ấy đột nhiên biến mất. Điều này theo các nhà khoa học chính là kỷ niệm về những người bạn “kiếp trước” của chúng.

Vẫn chưa có một nhà tâm lý học nào có thể giải thích một cách logic về những cá tính khác nhau, cũng như các “chất lượng cá nhân” khác nhau của đám con trẻ được sinh ra từ một gia đình chung. Trong từng trường hợp, thể hiện những dấu hiệu ảnh hưởng từ “kiếp trước”, được giới tâm lý học nêu ra các giả thuyết về những “biến dạng của tâm lý”: như mê ngủ, nghe hoặc đọc được ở đâu đó… Giới vương quyền Ai Cập thời cổ cũng từng hay nói về các “kiếp luân hồi”, cả Hoàng đế Pháp Napoléon, cũng như nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng khác cũng vậy – những người thường nhớ về “kiếp trước”, để chỉ muốn tạo ra cái ấn tượng về “xuất xứ thần thánh” của họ. Đa phần trong chúng ta không hề gợi nhớ lại “kiếp trước” ngay cả qua những cách tân tiến hoàn thiện nhất. Trong trường hợp đó, không tồn tại quan niệm “đầu thai” trong thực tế. Ngoài ra cũng còn nhiều điểm bất đồng ngay cả giữa những người vốn luôn tin vào “kiếp trước”.

Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến trình này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng “đầu thai” trong “vòng xoay luân hồi” của mỗi người. Kireiina (Theo Công An Nhân Dân)