24/07/2008
Nhà Nước Quay Dân Như Con Dế
Hoa Thịnh Đốn.- Đảng Cộng sản Việt Nam đang thi đua diễn kịch “quay dân như con dế” để đánh vật với nguy cơ kinh tế tụt hậu và nạn hút máu ngân sách của tập đoàn quan tham.
Màn kịch đầu tiên diễn ra ở sân khấu xăng dầu ngày 21-7 (2008) , khi Nhà nước bất ngờ tăng giá xăng từ 14.500 đồng/lít lên 19.000 đồng/lít, dầu diesel tăng từ 13.950 đồng/lít lên 15.950 đồng/lít mà không cần thông tin dự báo trước để chuẩn bị tinh thần cho dân.
Việc này xẩy ra đúng vào thời điểm cơn sốt vật giá leo thang đồng loạt và nạn lạm phát đang hướng tới mức đe dọa 30 phần trăm khiến cuộc sống người dân đã khốn đốn càng lúng túng hơn.
Theo báo Nhân Dân, tại cuộc họp báo thông báo điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu sáng ngày 22-7 (08) , Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh cho biết, việc tăng giá dầu lần này nhằm giảm bù lỗ của Nhà nước.
Ninh cho biết, nếu nhà nước cứ giữ giá như vừa qua thì tính đến cuối năm con số bù lỗ lên đến chừng 70 ngàn tỷ đồng; bên cạnh đó chính phủ phải thất thu khỏang 25 ngàn tỷ đồng tiền thuế do giữ mức thuế nhập khẩu xăng dầu bằng 0%.
Ai cũng biết Việt Nam không thể sống mãi với gía dầu tăng nhanh trên thị trường quốc tế bằng cách bù gía để kìm hãm lạm phát tăng nhanh trong 6 tháng đấu năm nay (2008), nhưng nhà nước lại không màng đến sức chịu đựng đang cạn kiệt của đại đa số dân nghèo để giáng thêm xuống đầu họ cú đấm như búa bổ tăng giá món hàng bắt buộc phải có để kiếm sống như xăng dầu là hành động vô trách nhiệm.
Vì vậy ai cũng bị bất ngờ, bàng hòang và bất bình.
Chuyên gia Kinh tế hàng đầu của Việt Nam, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh phản ứng với tờ Thời Báo Kinh tế trong số báo ngày 23-7 (08) : “ Không chỉ cá nhân tôi mà có khá nhiều chuyên gia kinh tế khác cũng khá bất ngờ về mức tăng giá tới 30% đối với xăng dầu. Đây là một mức tăng cao so với khả năng chi trả và mặt bằng thu nhập của đại bộ phận người dân hiện nay.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là việc tăng giá tới 30% này nhất định sẽ tác động đến chỉ số giá tiêu dùng trong thời gian tới, mà theo dự đoán của tôi sẽ khiến cho CPI (consumer price index) tăng thêm khoảng 1,5%, chứ không chỉ là 0,6 hay 0,7% như một số bộ, ngành dự báo.
Cũng chính từ việc tăng giá xăng dầu này nên chắc chắn trong thời gian tới, khá nhiều ngành như: vận tải, dệt may, đánh bắt thủy sản… sẽ là “nạn nhân” của đợt tăng giá này.
Những nhóm ngành này trong thời gian tới sẽ phải nỗ lực rất nhiều để có thể đương đầu với chi phí tăng cao. Nhưng tôi không tin là một mình họ có thể vượt qua được những khó khăn và có thể tự bù đắp được do tác động của giá xăng dầu tăng cao.”
Ông Doanh cảnh cáo : “ Theo tôi, Chính phủ cũng như chính quyền địa phương nên có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn này. Tôi cho rằng, ảnh hưởng của tăng giá xăng lần này sẽ là không nhỏ nên Chính phủ cần phải xem xét một cách thận trọng, thấu đáo, không thể để doanh nghiệp tự gánh vác một mình được, bởi các nước khác họ đều có sự hỗ trợ hết.”
Còn nếu chỉ vì tăng giá xăng mà đánh bắt thủy sản phải đình lại, dệt may không xuất khẩu được… thì đây quả là một điều hết sức đáng tiếc.
Phê bình về biện pháp bất ngờ của nhà nước ngày 21-7, Tiến sỹ Doanh nói : “ Theo tôi, tốt nhất là phải có một lộ trình, có nguyên tắc, tránh làm theo kiểu giật cục. Theo nguyên tắc thì chính sách phải tạo ra tính dự báo được tình hình để cho người dân có sự chuẩn bị, điều chỉnh. Lẽ ra, nên có sự thông báo trước cho người dân theo tinh thần là: nếu xăng dầu thế giới tăng đến mức cụ thể nào đấy thì giá trong nước sẽ điều chỉnh tăng ở mức cụ thể tương ứng.
Đáng tiếc là đợt tăng giá hôm 21/7 là chưa làm được điều này, nên đã gây nên khá nhiều những ý kiến phản hồi từ nhân dân, doanh nghiệp.”
Thời Báo Kinh tế hỏi : “ Chính phủ khẳng định, tăng giá xăng dầu là để giảm gánh nặng bù lỗ. Nhưng nếu so sánh mục tiêu này với một cơn “bão giá” mới thì việc nào nên được cân nhắc hơn, thưa ông?”
Tiến sỹ Doanh : “ Khi quyết định tăng giá xăng dầu thì chắc chắn Chính phủ không cho rằng sẽ có sự đảo lộn của nền kinh tế. Tuy nhiên, tôi nghĩ có một điều mà chúng ta cần phải chuẩn bị tư tưởng trước, đó là sẽ có một đợt tăng giá mới.”
CHỦ QUAN HAY CẬN THỊ ?
Trong khi Ông Doanh dự báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có khả năng leo lên 1,5 % sau đợt tăng gía dầu thì Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh không nghĩ như thế .
Ninh nói : “ Chúng tôi tính toán tác động trực tiếp của việc tăng giá xăng dầu lên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là khoảng 0,5%-0,7%. Ảnh hưởng trực tiếp của tăng giá xăng dầu là không lớn nhưng những tác động dây chuyền, tác động gián tiếp qua nhiều vòng sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, Chính phủ cũng đã có văn bản gửi các ngành sản xuất kinh doanh cần kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu vào, thực hiện tiết kiệm để ổn định giá cả.”
Ninh cũng nói với Báo chí tại Hà NộI : “ Xăng dầu là mặt hàng có tác động nhiều đến sản xuất kinh doanh của DN (doanh nghiệp). Sau đợt tăng giá xăng dầu này sẽ tác động đến giá cả của nhiều mặt hàng. Tuy nhiên, nếu mức tác động vẫn ở trong tầm DN kiểm soát được thì vẫn cố gắng chấp nhận giảm lãi để không điều chỉnh giá. Nếu bất khả kháng buộc phải tăng giá thì phải đăng ký để thực hiện kiểm soát. Hạn chế tình trạng điều chỉnh giá tràn lan, các cơ quan nhà nước sẽ thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát cơ cấu giá cả các mặt hàng, chống đầu cơ tăng giá, thực hiện niêm yết giá công khai... không để tăng giá bất hợp lý.”
Ai cũng hy vọng như thế và nhà nước đã cho dân biết các mặt hàng điện, nước và than vẫn giữ nguyên gía cho đến cuối tháng 12/2008.
Nhưng người dân không chỉ sống bằng điện, nước và than mà còn cần nhiều mặt hàng thiết dụng khác như gạo, thịt, rau, cá, thuốc men, phương tiện di chuyển, giấy, sách, bút mực và quần áo mặc hàng ngày v.v… nên rất khó mà bảo giá tiêu dùng sẽ không vượt qúa 1% như dự báo của nhà nước.
Bằng chứng của sự đột biến thị trường tiền tệ sau tăng giá xăng dầu đã xẩy ra đối với đồng Mỹ kim. Một bản tin trong Báo Quân đội Nhân Dân ngày 21-7 (08) viết : “ Ngay sau khi Bộ Tài chính công bố tăng giá bán lẻ xăng dầu, trên thị trường “chợ đen”, một số đối tượng đầu cơ đã lợi dụng yếu tố tâm lý đẩy giá bán đô-la Mỹ (USD) lên cao để trục lợi. Đến 16 giờ 30 phút chiều 21-7 giá USD tại một số cửa hàng trao đổi ngoại tệ tại Hà Nội đã tăng mạnh lên 17.500 đồng/USD (giá bán ra) và 17.200 đồng/USD (giá mua vào). Như vậy, giá mua USD tại các đại lý thu đổi ngoại tệ tại Hà Nội đã tăng khoảng 700 đồng so với đầu giờ chiều ngày 21-7 và tăng 800 đồng so với đầu giờ sáng cùng ngày.
Trước “cơn sốt” do tâm lý này, chiều qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát đi thông tin khẳng định hệ thống ngân hàng có đủ nguồn ngoại tệ để đáp ứng mọi nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế và khuyến cáo người dân không nên vì yếu tố tâm lý mà đổ xô đi mua ngoại tệ, tránh thiệt hại không đáng có. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vào giữa tháng 6-2008, tỷ giá đô-la Mỹ trên thị trường tăng mạnh, do yếu tố đầu cơ và tâm lý. Với các biện pháp can thiệp đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước, những ngày gần đây, thị trường đã ổn định trở lại, tỷ giá mua bán đô-la Mỹ xoay quanh mức từ 16.600 đến 16.700 đồng/USD. Mức tỷ giá này phản ánh đúng tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường.”
Tình trạng buôn bán chợ đen đồng Mỹ kim là một báo hiệu không mấy tốt cho thị trường tiền tệ bấp bênh của Việt Nam. Nó có nguy cơ tạo ra tình trạng xấu như cảnh báo của Tiến sỹ Nguyễn Đại Lai, một chuyên viên tài chính, trên Thời báo Kinh tế ngày 18/07/2008.
Ông Lai viết : “ Năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho dù đã được Ngân hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là 12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm, giá trị đồng USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do.
Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng giá đột ngột trở lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200đ/USD rồi từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh lên trên 19.500đ/USD, nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về trạng thái bình thường xung quanh 16.800đ/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn.
Nội hàm của sự bất ổn này nếu loại trừ những nhân tố khách quan tác động từ nước ngoài, thì có 3 nguyên nhân chính từ phía chính sách quản lý ngoại hối còn lỏng lẻo.
Thứ nhất, do tình trạng Đôla hoá trên thị trường tài chính Việt Nam còn khá phổ biến trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín dụng qua ngân hàng thương mại... đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi xuất hiện những biến động về ngoại tệ.
Thứ hai, nhập siêu 6 tháng đầu năm 2008 đã lên tới trên 14 tỷ USD (chủ yếu rơi vào 4 tháng đầu năm), cao kỷ lục từ trước đến nay.
Thứ ba, không ngoại trừ có một lượng nội tệ nằm tại các quĩ đầu tư và tại các quĩ tiền mặt của các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam đã mua vào khá nhiều Đôla để chuyển đổi tiền tệ, tạo tâm lý bất ổn để đầu cơ tiền tệ ngay trên thị trường tiền tệ Việt Nam cùng với những hành vi vi phạm của một số đại lý thu đổi ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại đã tự ý găm ngoại tệ để đầu cơ không bán lại cho ngân hàng theo cam kết...
Ngoài ra còn một số lý do gián tiếp khác là các tín hiệu phát ra từ nền kinh tế đầu tầu thế giới là Mỹ rất biến động.”
LẠC QUAN TẾU
Tuy vậy, Báo Điện tử của Trung ương đảng CSVN ngày 18/7/2008 vẫn đăng bài viết của Nguyên Lan mang đầy tính lạc quan về tình hình kinh tế.
Lan viết : “ Trong những tháng đầu năm 2008, bên cạnh việc tăng trưởng về kinh tế, lạm phát vẫn có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa với việc những tháng cuối năm 2008 lạm phát vẫn tăng mạnh… Theo một số nhà chuyên môn, nền kinh tế nước ta trong những tháng đầu năm 2008 đã để xảy ra lạm phát cao, do những nguyên nhân nhập siêu quá mức, làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn tới khó khăn về ngoại tệ và nghiêng lệch cán cân thanh toán, hệ thống ngân hàng mất thăng bằng, sụt giảm thị trường bất động sản, các doanh nghiệp thiếu sức cạnh tranh và đầu tư dàn trải, không hiệu quả…”
“ Cũng theo các nhà chuyên môn, vì những lý do trên, trong 6 tháng cuối năm 2008, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi nguy cơ xảy ra khủng hoảng, nhất là trong các lĩnh vực: Khủng hoảng tiền tệ do phá giá đồng tiền; khủng hoảng cán cân thanh toán; khủng hoảng tại hệ thống ngân hàng…
Tuy nhiên, đối với một số nhà chuyên môn có kinh nghiệm, mặc dù có những nguy cơ trên, nền kinh tế của Việt nam trong những tháng cuối năm 2008 vẫn có những tín hiệu rất khả quan, do nhiều yếu tố chính như: Hệ thống ngân hàng trong nước về cơ bản vẫn đang đứng vững; cạnh đó các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam, kể cả cả nợ dài hạn và ngắn hạn, vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát; xuất khẩu và thu hút FDI (Foreign Direct Invesment) của Việt Nam hiện tại vẫn tăng mạnh; còn nữa: nền kinh tế Việt Nam dựa nhiều vào nông nghiệp; mà lĩnh vực nông nghiệp lại chính là lĩnh vực thường ít chịu sức ép nhất khi xảy ra suy thoái kinh tế. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai có hiệu quả chính sách kiềm chế lạm phát, bao gồm nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp thắt chặt tiền tệ và thắt chặt tài khóa. Những biện pháp kiềm chế lạm phát này đang tỏ ra có hiệu qủa tốt và đang tiếp tục phát huy hiệu quả trong thời gian tới…”
Thái độ lạc quan hồ hởi này này được phát ra cùng thời với lời cảnh báo mới của Ngân hàng Phát triển châu Á (Asian Development Bank) về nguy cơ “lùi lại” của nền kinh tế Việt Nam.
Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 23-7 (08) viết : “ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo năm nay tổng sản lượng quốc nội (GDP) của Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm lại còn 6,5%, nhưng năm tới sẽ tăng lên 6,8% so với tốc độ 8,5% của năm ngoái và 7,3%/năm trong thập kỷ trước.
Ngân hàng này cũng dự báo lạm phát năm 2008 của Việt Nam sẽ tăng lên 19,4%, sau đó sẽ hạ xuống 10,2% vào năm tới so với 8,3% trong năm 2007.
Trong báo cáo "Giám sát Kinh tế châu Á" được công bố định kỳ 6 tháng một lần, ADB lưu ý Việt Nam cần phải hành động dứt khoát để tránh cuộc suy thoái kinh tế như đã từng xảy ra ở Thái Lan, nơi khởi nguồn cho cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1997-1998.
Trong bối cảnh lạm phát hàng năm ở Việt Nam đang hướng tới mức 30% và thâm hụt thương mại ngày càng phình to, ADB nói rằng nỗi lo ngày càng gia tăng về khả năng nền kinh tế này có thể đối mặt với những khó khăn rất lớn.
Chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng của Việt Nam đã giúp lý giải tình trạng lạm phát và thâm hụt thương mại trong nước gia tăng, dẫn tới khó khăn kinh tế tương tự như của Thái Lan trong thập niên 1990, cho dù các nền tảng của Việt Nam hiện nay có vẻ vững chắc hơn.
Nhưng trong khi có những tín hiệu đáng khích lệ cho thấy các chính sách thắt chặt của Chính phủ Việt Nam bắt đầu phát huy tác dụng, kinh nghiệm của Thái Lan cũng cho thấy nếu những phản ứng trong chính sách yếu kém hoặc không thích hợp sẽ rất dễ dẫn tới khủng hoảng.
ADB hối thúc Chính phủ Việt Nam tiếp tục giám sát chặt chẽ tình hình, có hành động dứt khoát và nhanh chóng để ngăn chặn không cho nền kinh tế trở nên tồi tệ hơn.
Trong tháng 6, lạm phát ở Việt Nam đã tăng 26,8% so với cùng kỳ năm ngoái và là một trong những nước có lạm phát cao nhất ở châu Á do chịu tác động mạnh của sự lên giá dầu mỏ và lương thực. Trong khi đó, thâm hụt mậu dịch trong 6 tháng đầu năm nay của Việt Nam cũng tăng gấp 3 lần, lên 16,9 tỷ USD.”
Cùng ngày này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam loan báo kết quả kiểm tra việc thực hiện sắp xếp, bố trí lại kế hoạch đầu tư theo chỉ đạo của Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng, tại 15 tập đoàn kinh tế, tổng công ty, 36 bộ, ngành, 64 địa phương để kiểm soát lạm phát.
Bản tin của Bộ này viết : “ Kết quả kiểm tra cho thấy đã có tổng cộng 2.971 dự án đầu tư công được cắt giảm, giãn tiến độ hoặc hoãn khởi công với tổng số vốn được tiết giảm tương đương 35.358 tỷ đồng.”
Vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, ông Bùi Hà, cho biết thực tế tổng cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế cũng sẽ không đổi do số vốn hơn 35.000 tỷ đồng được tiết giảm qua gần 3.000 dự án sẽ được sử dụng để bố trí vốn cho các dự án cấp bách hơn, hiệu quả hơn và những dự án chuyển tiếp cho năm sau.
Ông Hà cho biết thêm, công tác kiểm tra cắt giảm đầu tư công hiện mới được thực hiện tại 15 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với các cơ quan khác tiếp tục triển khai kiểm tra tại 55 doanh nghiệp khác.”
Tuy nhiên Báo cáo của Hà cũng chỉ là hạt muối bỏ biển so với số tiền thua lỗ của các công ty Nhà nước.
Báo Đại Đòan Kết ngày 11-7 (08) viết : “Vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ngoài ngành với tổng số tiền lên tới 7 ngàn tỷ đồng; Hàng loạt những tập đoàn, Tổng Công Ty 90-91 khổng lồ đang kinh doanh thua lỗ nặng nề hoặc có lãi không bằng một hợp tác xã tư nhân và việc cắt giảm các dự án đầu tư theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đang là những vấn đề dư luận hết sức quan tâm.”
Tờ Báo viết tiếp : “ Sáng qua (10-7) Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp đã tổ chức buổi họp báo để thông báo tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước trong 6 tháng đầu năm 2008. …Tại buổi họp báo, hai vấn đề được đặc biệt quan tâm đó là tình hình đầu tư vốn và hoạt động huy động vốn cho đầu tư của các Tập đoàn và TCT. Mặc dù báo cáo của Ban chỉ đạo ghi nhận việc các tập đoàn, TCT hoạt động theo mô hình công ty mẹ, con là hướng đi đúng trong tiến trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp. Nhưng không thể phủ nhận một thực tế, thời gian qua cũng có một số tập đoàn, TCT đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bất động sản với số tiền lên tới hơn 7000 tỷ đồng…”
Việc này có nghĩa các Công ty Nhà nước đã không dùng tiền vay của Nhà nước vào việc kinh doanh dài hạn mà đem tiền đi đầu tư kiếm lời hay mua, bán nhà đất.
Báo Đại Đòan Kết viết tiếp :“…Theo báo cáo hàng loạt những tập đoàn, TCT lỗ với số lượng lớn như: TCT xăng dầu lỗ 900 tỷ đồng, TCT Xây dựng miền Trung lỗ 88 tỷ đồng, TCT Hàng không lỗ 83,5 tỷ đồng, TCT Chè lỗ 4,8 tỷ đồng. ..và nhiều TCT tuy không lỗ nhưng lợi nhuận đạt thấp như TCT Thủy sản Hạ Long 600 triệu đồng, TCT Thiết bị y tế đạt 700 triệu đồng... Về tình trạng kinh doanh thua lỗ của các Tập đoàn, TCT, Thứ trưởng Trần Xuân Hà cho biết thêm: Theo thống kê năm 2007 có 97% Tập đoàn, TCT kinh doanh có lãi, có nghĩa là chỉ 3% số lượng Tập đoàn, TCT lỗ. Năm 2008 này,vẫn có thể có một số DN thua lỗ.”
Có điều ngạc nhiên là dù thua lỗ hay không lãi nhiều nhưng Nhà nước vẫn lấy tiền đóng thuế của dân hay đồng tiền do mồ hôi nước mắt lao động của dân làm ra để bù đắp để cho cán bộ, đảng viên hưởng thụ.
Như vậy, tại sao đảng và nhà nước không xóa sổ các Công ty hay Doanh nghiệp thua lỗ để chận đứng lạm phát cứu nguy kinh tế cho dân bớt khổ, hay là sợ chặt cây thì cả rừng sẽ đổ rồi Đảng sẻ ngả theo nên Tổng Bí thư đảng Nông Đức Mạnh không dám ra tay ? -/-
Phạm Trần
Marx chết nhưng Stalin vẫn còn
05/11/2007
Ông Sam Shuster, một giáo sư y khoa chuyên dậy các bệnh ngoài da, đã tìm trong những di cảo thư từ của Marx, thấy người khai sáng chủ nghĩa cộng sản bị bệnh mụn nhọt ghẻ lở rất tội nghiệp. Điều này các tiểu sử của Marx đã viết cả rồi. Nhưng ông Shuster cũng nêu lên một sự thật mà mọi người tránh không nói. Là bệnh ghẻ lở đã khiến Karl Marx trở thành bực tức, mất tự tin, hay giận dữ, và ông trút nỗi tức giận của mình lên thế giới chung quanh.
Chứng bệnh gọi là hydradentinis suppurativa (HS) thường gây ra mụn ghẻ ở nhưng trên thân thể nơi có nhiều tuyến tiết mồ hôi. Giáo sư Shuster nói người bệnh này hay bị nhọt nổi lên, rất đau đớn. Vì vậy Marx hay nổi cáu, văn chương ông mang giọng oán hận và trả thù đời. Đọc bản Tuyên ngôn Cộng Sản thấy giọng văn quyết liệt hùng hồn của Marx. Shuster dẫn chứng một câu Marx viết trong lá thư gửi Engels năm 1867: “Bọn tư sản sẽ nhớ mãi những mụn nhọt của tôi cho tới ngày chúng chết!”
Có lẽ hàng trăm triệu người vô tội bị các lãnh tụ cộng sản thủ tiêu cũng là nạn nhân của những cơn đau đớn mà Karl Marx phải chịu đựng. Trong đó, con số lớn nhất là những người Nga đã bị Stalin giết trong cuộc “Đại Khủng bố” hồi thập niên 1930. Ngày Thứ Ba vừa qua, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tới trại lính Butovo để tưởng niệm các nạn nhân Đại khủng bố của Stalin. Ngoài mấy chục triệu nông dân Nga và các nước phụ thuộc chết đói vì chính sách tập thể hóa củaông, chính Stalin đã ra lệnh giết hàng triệu người vô tội khác trong những chiến dịch thanh trừng này. Tổng cộng số nạn nhân lên tới ba bốn chục triệu. Cuộc đại khủng bố mở màn sau khi Sergei Kirov, bí thư thành ủy Leningrad (nay đổi trở lại tên cũ, Saint Petersburg) bị ám sát. Hầu hết những ủy viên Bộ Chính trị lúc Lenin còn sống đã bị Stalin giết, như Zinoviev, Kamenev, Rykov và Bukharin. Ngoài các cán bộ cộng sản cao cấp còn hàng triệu thường dân vô tội đã bị Stalin ra lệnh bắn chết. Riêng ở trại lính tại Butovo một giáo sĩ nhân chứng đoán có 60 ngàn người bị công an mật vụ bắn trong vòng một năm, hồi 1937 - 1938, “có những nông dân, công nhân, các viên chức, có cả một gánh hát từ miền Baltics bị giết hết sạch.” Số người bị sát hại cao nhất vào năm 1937, cho nên năm nay người Nga mới tưởng niệm 70 năm những nạn nhân cơn đại họa đó. Ông Vladimir Putin vốn là một cựu sĩ quan công an mật vụ KGB, bây giờ chính ông lên tiếng kêu gọi dân Nga đừng bao giờ để xẩy ra những tai họa khủng khiếp như thời 1930 nữa.
Ông Hồ Chí Minh có mặt ở Moskva trong thời gian từ 1934 đến 1938. Khi đó ông đóng vai một sinh viên cấp cao trong trường huấn luyện của Đệ Tam Quốc Tế, có lúc được làm phụ khảo dậy các cán bộ cộng sản người Việt du học. Ông Hồ lúc đó đã bị hạ tầng công tác và đang bị nghi ngờ, ông suýt bị giết nếu không được người chỉ huy trực tiếp là Dimitry Manuilsky cứu. Ông Hồ biết mình có thể nằm trong danh sách bị thủ tiêu, và rất sợ cuộc thanh trừng tàn bạo của mật vụ Stalin. Cho nên ông đã phải viết nhiều bài làm “tài liệu học tập” để chứng tỏ mình trung thành với vị chúa điện Kremlin. Các bài đó chỉ lập lại bản Tuyên ngôn Cộng Sản và các bài học của đảng viên Cộng Sản Liên xô. Ông Hồ chỉ cốt có dịp trích dẫn các lời Stalin nói để tỏ lòng tận trung, ông viết những câu như, “Đồng chí Stalin ngàn lần nói đúng! Năm 1935 ông Hồ chỉ được đóng vai phụ trongi Đại hội Đệ Tam Quốc tế lần thứ bẩy. Ba người đại biểu chính thức của đảng Cộng Sản Đông Dương là Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Non (người Tầy) và Nguyễn Thị Minh Khai. Tài liệu của Đông phương bộ Đệ tam Quốc tế cho biết đầu năm 1931 ông Hồ đã xin phép lấy vợ, bà Minh Khai lúc đó cũng sống ở Hồng Kông với ông Hồ. Trong đơn điền đơn ghi tên tham dự Đại hội Bẩy bà Minh Khai viết mình là vợ của Quốc, tức ông Hồ, mặc dù mật thám Pháp thì ghi rằng bà là nhân tình của Trần Ngọc Danh (hai người đó cộng tác với nhau xây dựng lại đảng ở Thượng Hải, Hồng Kông vào năm 1932 trong lúc ông Hồ vắng mặt). Nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam thì vẫn coi bà là vợ Lê Hồng Phong.
Giai đoạn này trong cuộc đời Hồ Chí Minh còn những dấu vết gây ảnh hưởng sau này. Ông được trang bị với những lời văn đầy uất hận của Karl Marx, lại học được các thủ đoạn tàn bạo của Stalin. Nước ta lúc đó chưa có giai cấp tư bản, nhưng ông Hồ vẫn hô hào chống tư bản để được Stalin trợ cấp tiền hoạt động. Ông biết chế độ độc tài mật vụ khủng khiếp như thế nào, nhưng khi về Việt Nam ông đã dựng lên một chế độ giống hệt. Bây giờ các đảng viên con cháu ông đang học tập thói làm ăn thời tư bản hoang dã nhưng chế độ công an đảng trị mà ông lập ra vẫn tiếp tục tác hại.
Hành động của công an cộng sản ở huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn đánh trọng thương ông Nguyễn Phương Anh, một người đang lên tiếng đòi dân chủ cho dân Việt Nam, là một bằng chứng cho thấy công an vẫn hoành hành không coi có thứ pháp luật nào cả. Ông Phương Anh từ Hà Nội đi thăm bạn, mới vào trong nhà uống nước thì bị công an tới hỏi. Lúc đầu họ viện cớ thấy người lái xe gây tai nạn chạy vào nhà này; sau không có bằng cớ nào bèn quay ra hỏi giấy tờ, rồi lôi người ta ra khỏi nhà cho một đám côn đồ đánh đập. Vụ khủng bố này không lớn như những cuộc khủng bố thời Stalin, nhưng cả hai đều cùng do một nguyên nhân: Khi trao quyền hành tuyệt đối cho cán bộ, công an mật vụ, cốt bảo vệ quyền lợi các lãnh tụ đảng, thì đám công an sẽ lộng hành, không cần lẽ phải và bất chấp pháp luật.
Khi dựng lên một hệ thống cai trị độc tài rồi thì cái guồng máy đó sẽ tiếp tục chạy không cách nào kìm hãm nổi, trừ khi làm một cuộc cách mạng lật đổ chế độ mật vụ đó, như người Nga và dân các nước cộng sản Đông Âu đã làm. Thay đổi kinh tế mà không thay đổi chính trị thì chỉ làm cho guồng máy công an mật vụ thêm động cơ hoạt động mạnh hơn thôi. Vì trong kinh tế tư bản hoang dã, người ta sử dụng quyền hành để bảo vệ tham nhũng; quyền hành càng lớn thì tham nhũng càng dễ. Nhật báo Financial Times mới kể chuyện một nông dân Trung Quốc bị guồng máy công an hành hạ. Từ năm 1992 gia đình ông Fu Xian Cai đã theo lệnh chính phủ Bắc Kinh bỏ nhà bên dòng Trường Giang, dọn đi nơi khác ở để ông Lý Bằng xây đập Tam Hạp. Chính phủ hứa sẽ bồi hoàn mỗi nhà 30,000 nhân dân tệ (khoảng 5,000 mỹ kim), nhưng cuối cùng người dânï chỉ nhận được 5,000 đồng.
Vậy thì tiền chạy đi đâu mất? Vào túi các quan chức, từ tỉnh tới thành phố, xuống tới các quận huyện, và cuối cùng là xã thôn! Chính phủï hứa sẽ xây dựng các nhà máy ở nơi định cư mới cho nông dân dời nhà tới nơi mới sẽ có việc làm. Các cơ xưởng này được trao cho bà con của các vị quan chức quản lý, nhiều nơi nay đã tuyên bố phá sản, có nơi chưa bắt đầu hoạt động đã đóng cửa! Ông Fu đã khiếu nại, từ làng lên đến tỉnh, và lên tận Bắc Kinh. Ông cho con đi học luật vì nghĩ rằng nó sẽ thành luật sư giúp bố thưa kiện. Nhưng cuối cùng vẫn vô hiệu. Kiện mãi không được, ông Fu Xian Cai có lúc đã than thở với các nhà báo người Đức. Thế là ông, cũng như ông Nguyễn Phương Anh ở Hà Nội, bị gán tội “chống lại tổ quốc.” Năm ngoái, một hôm ông đang đi bộ trong làng thì bị một người đánh vào cẳng, chưa kịp phản ứng thì lại một người khác đánh vào gáy, bất tỉnh! Từ đó ông bị tê liệt. Chính phủ Đức đã phản đối chính quyền Bắc Kinh, nhưng vô ích. Hiện nay người Đức tự coi họ có trách nhiệm trước hoạn nạn của ông Fu, đang giúp ông lên Bắc Kinh điều trị để tránh đám công an địa phương, và mỗi tháng tặng 5,000 nhân dân tệ.
Các lãnh tụ cộng sản ở Bắc Kinh và Hà Nội có biết những hành động đó là vi phạm nhưng dân quyền ghi trong bản hiến pháp của họ hay không? Chắc chắn họ biết, và chắc nhiều người cũng muốn sửa đổi. Nhưng họ không làm chủ được một guồng máy do các ông Mao và ông Hồ đã dựng lên, nay họ phải để cho guồng máy tự nó chạy, như một chiếc xe tăng không cần người lái! Ông Fu Xian Cai than, “Ông bí thư quận ủy nói một tiếng, bản hiến pháp cũng vứt đi!”
Trong hai di sản mà các ông Mao, ông Hồ để lại, chủ nghĩa đã tàn rồi, nhưng cơ chế chưa mất. Bây giờ các lãnh tụ cộng sản không còn nhắc tới những tuyên ngôn của Karl Marx nữa vì chính họ đang tự cải tạo thành tư bản cả. Họ không chịu hậu quả những mụn nhọt làm ông Marx đau đớn nữa. Nhưng guồng máy công an truyền từ ông Stalin thì vẫn còn đó, chưa thay đổi chính trị thì chưa xóa bỏ được.
Nhưng những tay đầu gấu hành hung ông Nguyễn Phương Anh họ nghĩ gì khi xông vào đánh đập một con người? Chắc họ không suy nghĩ gì cả. Họ là những người làm theo lệnh trên, như những bánh xe răng cưa trong một guồng máy, máy chạy thì răng cưa phải quay. Tất cả những người trong guồng máy công an mật vụ cộng sản đều phải chạy trong một guồng máy vô hồn như vậy. Họ cũng là những nạn nhân bị các ông Stalin, Hồ Chí Minh đặt vào trong guồng máy, cho tới khi nào được thả ra vì cả cỗ máy ngưng chạy mới thôi. Năm 1990 khi ông Yeltsin ở nước Nga đứng ra chống phe đảo chính định lật đổ Gorbachev, những người cầm đầu mật vụ KGB bất động, các sĩ quan thuộc cấp không nhận được lệnh, thế là cả guồng máy cũng bất động theo, cuộc cách mạng dân chủ ở Nga đã bùng lên lật đổ chế độ cộng sản. Không phải là các sĩ quan KGB lúc đó ủng hộ cách mạng dân chủ. Họ chỉ chờ lệnh mà không thấy lệnh! Bây giờ các sĩ quan KGB cũ lại quy tụ chung quanh ông Putin nắm quyền hành ở Nga, nhưng họ cũng biết nên theo luật chơi mới. Họ có thể tìm cách mị dân để kiếm phiếu, tìm cách tập trung quyền hành để lấn áp các người đối lập, nhưng họ vẫn còn tôn trọng một thứ luật pháp. Đặc biệt, họ đã từ bỏ hai thứ, là chủ nghĩa Mác và độc quyền cai trị của một đảng. Bây giờ cựu sĩ quan KGB Vladimir Putin đang làm tổng thống cũng kêu gọi ở nước Nga phải có những cuộc tranh luận chính trị.
Cho nên công an mật vụ là định chế mạnh nhất nhưng cũng yếu nhất trong guồng máy cai trị cộng sản. Hai yếu tố làm cho guồng máy đó mạnh, một là lòng tin vào mục đích sau cùng mà Karl Marx đã vẽ ra; hai là nỗi sợ hãi bị thanh trừng, bị thủ tiêu nếu không theo lệnh các lãnh tụ. Cả hai yếu tố đó không còn nữa. Các đảng Cộng Sản ở Trung Quốc và Việt Nam đã thay thế chủ nghĩa Mác bằng chủ nghĩa kim tiền. Vì họ phải mở cửa để kiếm đô la, cho nên ý thức của người dân về quyền lợi của mình cũng lên cao. Các cơ hội sinh sống ngoài guồng máy đảng và nhà nước được mở ra, người ta không còn sợ hãi bị mất nồi cơm như trước nữa. Dư luận quốc tế cũng trở thành những hạn chế không cho các chế độ độc tài lộng hành. Cho nên, sau khi chủ nghĩa của Karl Marx đã cáo chung, chế độ công an mật vụ kiểu Stalin ta sớm muộn sẽ chấm dứt.
Chính ông Putin bây giờ lại đề cao các nạn nhân của Stalin; ông nói trong buổi lễ tưởng niệm rằng: “Hàng trăm ngàn, hàng triệu người đã bị giết, bị đưa vào trại cải tạo, bị bắn và hành hạ, tra tấn. (Chỉ vì) họ là những người can đảm có ý kiến riêng và dám nói thẳng ra không sợ hãi. Họ là tinh hoa của dân tộc chúng ta!” Putin cũng ám chỉ tới chủ nghĩa Marx khi nói những thảm kịch của cuộc đại khủng bố thời Stalin, “là do những lý thuyết hấp dẫn nhưng trống rỗng đã được tôn thờ, cao hơn các giá trị căn bản là đời sống, tự do, quyền làm người.” Những người ở Việt Nam đã được KGB huấn luyện chắc đều nghe được tiếng Nga và hiểu những lời nói đó. Chế độ độc tài nào cũng sẽ chấm dứt. Nên tu nhân tích đức ngay từ bây giờ.
Ngô Nhân Dụng
Phục hồi phẩm giá quốc gia
29/12/2007
Phát ngôn nhân của chính phủ Trung Quốc lại lên tiếng đe dọa chính quyền Cộng Sản Việt Nam, yêu cầu họ phải “tỏ ra có tinh thần trách nhiệm,” tức là phải ngăn chặn không cho thanh niên biểu tình chống Trung Quốc. Nhưng trách nhiệm của chính quyền một nước là trách nhiệm đối với ai? Tất nhiên là trách nhiệm với quốc dân. Ðây là lúc giới lãnh đạo đảng Cộng Sản phải nói thẳng điều đó với các “đồng chí, anh em” của họ.
Nửa thế kỷ trước, những người lãnh đạo cộng sản còn bắt dân Việt Nam theo phong trào cộng sản quốc tế, muốn đưa dân tộc Việt Nam đứng vào tuyến đầu mặt trận chống tư bản bóc lột. Trách nhiệm chính của họ khi đó là trách nhiệm đối với phong trào cộng sản thế giới. Các quyền lợi quốc gia bị coi là thứ yếu trong một cuộc cách mạng quốc tế. Hồ Chí Minh chịu đổi tên đảng cũng vì nghĩa vụ quốc tế. Việt Nam chỉ là một pháo đài bảo vệ các thành tựu xã hội chủ nghĩa đã đạt được ở Liên Xô và Trung Quốc, đồng thời được đóng vai mũi nhọn xung phong bành trướng của cách mạng vô sản thế giới. Bây giờ, ai cũng biết phong trào cộng sản quốc tế là một ảo tưởng, cả đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đang tư bản hóa theo gương Trung Quốc,mặc dù họ không dám thú nhận đã sai lầm.
Phẩm cách của một chính quyền có thể được đo lường bằng thái độ khiêm cung, thú nhận những lỗi lầm đã phạm. Ðã có ít nhất hai ông thủ tướng Nhật Bản chính thức xin lỗi dân tộc Ðại Hàn, vì trong thế kỷ 20 quân đội Nhật đã thi hành các chính sách tàn ác khi chiếm đóng Hàn Quốc. Ở nhiều tiểu bang trong nước Mỹ, Quốc Hội tiểu bang đã thông qua những quyết nghị công nhận trong quá khứ họ ủng hộ chế độ nô lệ, đó là một lầm lẫn, và họ bầy tỏ lòng ân hận về chủ trương sai lầm đó. Tuy những người đứng ra nhận lỗi sống cách xa những người phạm lỗi lầm hàng thế kỷ hoặc lâu hơn, nhưng thái độ can đảm dám công nhận tiền nhân của mình đã sai lầm khiến người ngoài trông thấy phải kính trọng.
Quan nhất thời, Dân vạn đại. Ðời sống một dân tộc thường rất dài, còn vận mạng những người cầm quyền không đáng kể. Người nắm quyền trong tay mà biết lắng nghe tiếng nói của người dân, bỏ qua những quyền lợi nhất thời của một phe, một đảng, biết làm theo nguyện vọng lâu dài của nhân dân, thì không những được dân tin tưởng, mà còn được sử sách ngợi khen.
Thanh niên, sinh viên, giới văn nghệ, báo chí đã biểu tình lần thứ nhì tại Hà Nội và Sài Gòn để phản đối Trung Quốc chiếm cứ các hòn đảo của Việt Nam. Nhiều nhà trí thức trong nước đã viết trên mạng lưới yêu cầu chính quyền Việt Nam phải công khai phủ nhận giá trị của lá thư mà ông Phạm Văn Ðồng viết gửi chính phủ Trung Quốc năm 1958 tỏ ý tán thành quan điểm của họ về lãnh hải. Nếu đảng Cộng Sản biết nắm lấy cơ hội này, họ sẽ có cách trả lời với những mệnh lệnh từ Bắc Kinh.
Phủ nhận bức thư của Phạm Văn Ðồng là một việc khó khăn cho giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam hiện nay, giống như những người con phải nhận cha mình đã làm sai. Nhưng một nửa thế kỷ đã trôi qua từ khi ông Phạm Văn Ðồng đặt bút ký, bây giờ các đại biểu Quốc Hội ở Hà Nội có thể biểu quyết thẳng thắn công nhận rằng lá thư đó là một sai lầm; rồi yêu cầu ông Nguyễn Tấn Dũng viết thư mới phủ chính bức thư năm 1958.
Như nhiều người đã nêu ý kiến trên mạng lưới, cũng như các ý kiến đã nêu lên trên Nhật Báo Người Việt, lá thư Phạm Văn Ðồng, dù với tính cách một thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, không hề có giá trị pháp lý.
Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong thời gian ông Phạm Văn Ðồng viết lá thư trên. Ðó là những vùng ở dưới vĩ tuyến 17, theo Hiệp Ðịnh Genève thì thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam đã ký vào Hiệp Ðịnh Genève, không thể coi là họ không biết sự kiện đó. Chính phủ miền Bắc không có thẩm quyền khi nhường các vùng thuộc miền Nam cho nước khác. Một độc giả báo Người Việt đã ví lá thư của Phạm Văn Ðồng giống như chính phủ một nước Úc hay Phi Luật Tân viết thư cho thủ tướng Nhật Bản, công nhận các quần đảo Guam và Wake là thuộc lãnh thổ Nhật chứ không phải là của nước Mỹ! Một bức thư như vậy là vô giá trị.
Hơn nữa, những quyết định về lãnh thổ, về hải phận một nước phải được quốc hội phê chuẩn chứ không thể do bức thư của một ông thủ tướng quyết định. Nay nếu coi như sau khi đã chiếm được miền Nam, chính quyền hiện tại đã thừa kế chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, thì Quốc Hội hiện giờ vẫn có thể biểu quyết xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo ở Biển Ðông, và ủy thác cho ông Nguyễn Tấn Dũng viết thư mới, xóa bỏ lá thư cũ của Phạm Văn Ðồng.
Tất nhiên, lá thư mới này sẽ chỉ có giá trị tượng trưng. Sau khi quân Trung Quốc đã đánh bại bốn chiến hạm hải quân Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 để chiếm Hoàng Sa mà chính quyền miền Bắc không hề lên tiếng phản đối, thì mọi người đều biết hậu quả. Không biết đến bao giờ người Việt Nam mới giành lại được chủ quyền trên các hòn đảo đã mất đó.
Nhưng không phải vì thực tế đó mà cả nước phải im lặng chịu nhục mãi. Dù chỉ có giá trị tượng trưng, người Việt Nam vẫn phải lên tiếng chính thức đòi lại chủ quyền trên các hòn đảo bị chiếm. Trên thế giới hiện nay có hàng ngàn vụ tranh chấp lãnh thổ, muốn giải quyết tất cả sẽ phải mất cả ngàn năm. Nhưng không một quốc gia nào lại âm thầm ngậm miệng không lên tiếng phản đối và đòi lại các miền đất đã bị nước ngoài chiếm đóng phi lý. Không một chính quyền nào lại cấm người dân của nước mình phản đối các nước lớn chiếm đất đai mà tổ tiên để lại. Ðó là danh dự và phẩm giá của dân tộc. Dân các nước Nhật Bản, Trung Quốc và Ðài Loan vẫn dùng lời nói và hành động đòi chủ quyền trên hòn đảo “Ðiếu Ngư Ðài” nhỏ xíu, họ không bao giờ ngưng!
Hãy xem tấm gương Phi Luật Tân trong thập niên 1970, 80. Chính phủ Phi Luật Tân bao giờ cũng thân thiện với Mỹ, dân chúng cả nước họ cũng vậy. Nhưng chính phủ Mỹ không lúc nào được yên thân không bị người Phi Luật Tân biểu tình đòi Mỹ rút quân khỏi các căn cứ hải quân ở Vịnh Subic và căn cứ Clark. Cuối cùng Mỹ phải trả lại Phi Luật Tân các căn cứ quân sự mà họ đã đóng từ hàng thế kỷ. Không biết như vậy cuối cùng là nước họ lợi hay thiệt, nhưng người nước ngoài phải kính trọng người dân và chính phủ Phi Luật Tân. Khi đụng chạm tới danh dự quốc gia, người ta không còn tính lợi hay thiệt nữa.
Giao thiệp giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể so sánh với mối quan hệ giữa Estonia và Nga. Ðó đều là tình trạng một nước nhỏ bên cạnh một láng giềng lớn gấp bội. Năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, các nước vùng Baltic giành lại độc lập, nhưng Nga vẫn coi đó là vùng nằm trong ảnh hưởng của mình. Cuối Tháng Tư vừa qua, chính phủ Estonia đã di chuyển một pho tượng kỷ niệm Hồng Quân Liên Xô ở trung tâm thủ đô Tallinn ra một nghĩa trang tử sĩ ở ngoại ô. Ðối với dân Estonia, đài kỷ niệm “Hồng Quân Giải Phóng Estonia” này là một mối nhục. Họ không nói thẳng điều đó ra, mà chỉ nêu lý do cần chỉnh trang thành phố. Sau đó, các tay “đạo tặc tin học” phát xuất từ Nga đã tấn công tất cả các mạng lưới điện toán ở Estonia làm tê liệt gần hết hệ thống thông tin thương mại trong nước này. Estonia, với dân số 1 triệu 300 ngàn, bị tê liệt, vì hai phần ba dân chúng dùng Internet (broadband); họ dùng mạng lưới trong mọi giao dịch thương mại, có 80% dân đóng thuế qua mạng lưới. Chính phủ Estonia đã yêu cầu Nga chấm dứt cuộc tấn công trong khi cũng kêu gọi các nước Tây Âu giúp mình. Không phải vì sợ nước Nga to lớn mà chính phủ Estonia không dám gia nhập các liên minh chính trị và quân sự với Tây Âu. Họ vẫn giữ được phẩm cách, dù là một nước nhỏ.
Một nước nhỏ muốn đương đầu với nước láng giềng lớn thì phải dựa vào dân. Dựa vào dân có nghĩa là khi chính quyền bị nước khác ép quá, có thể chống lại lấy cớ rằng dân chúng của nước mình không chịu. Nếu điều ép buộc lại làm nhục quốc thể, càng dễ cưỡng lại các áp lực của nước lớn hơn, vì không một dân tộc nào muốn chịu nhục.
Trong mấy chục năm nay ở Ðại Hàn vẫn luôn luôn có những cuộc biểu tình của sinh viên chống áp lực của Mỹ, nhiều lần họ đòi quân Mỹ phải rút khỏi Nam Hàn. Ai cũng biết quân Mỹ đã giúp bảo vệ cho Nam Hàn khỏi trở thành cộng sản, nếu không thì các thanh niên này đang phải sống dưới quyền của “Bác Kim Chính Nhật muôn vàn kính yêu.” Nhưng chính phủ Nam Hàn vẫn chấp nhận cho sinh viên biểu tình chống Mỹ. Họ có thể nhân cơ hội đòi hỏi chính phủ Mỹ phải thỏa hiệp với họ trên các vấn đề bất đồng ý kiến khác. Người Mỹ hiểu được tình trạng đó mà không lên tiếng đòi chính phủ Seoul phải dẹp bỏ những cuộc biểu tình. Vì Mỹ cũng là một nước tự do dân chủ, họ hiểu rằng chính phủ Ðại Hàn không điều khiển được tất cả hoạt động của các công dân. Xã hội công dân ở Hàn Quốc cũng mạnh không khác gì ở các nước dân chủ khác.
Một nước nhỏ muốn dựa vào dân chống lại áp lực của các nước lớn thì trước hết phải tôn trọng các quyền tự do phát biểu của dân. Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội phải dẹp biểu tình vì họ biết rằng Cộng Sản Việt Nam xưa nay vẫn điều khiển tất cả mọi việc. Khi đảng ra lệnh thì tất cả các báo, đài, các nhà văn, nhạc sĩ đều hoan hô “Trung Quốc vĩ đại.” Ðến lúc đảng ra lệnh mới, tất cả các báo, đài, các nhà văn, nhạc sĩ đều quay ra chống “Trung Quốc bá quyền xâm lược.” Không những các cá nhân làm theo lệnh như vậy đã mất tư cách mà cả dân tộc cũng mất phẩm giá. Cho nên, trong việc sửa chữa lại các lỗi lầm quá khứ, đảng Cộng Sản Việt Nam phải trả lại các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Như vậy mới có thể phục hồi phẩm giá quốc gia.
Ngô Nhân Dụng
Tuesday, August 19, 2008
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment